Những nữ đảng viên 'giữ lửa' giữa đại ngàn Bài 3: Nắm lá thuốc của mẹ Thanh

Giữa thung lũng Thác Luồi Đakrông (xã Hướng Hiệp, Quảng Trị) - nơi những dải núi Trường Sơn xanh thẳm bao quanh, người phụ nữ Vân Kiều tên Hồ Thị Thanh vẫn đều đặn hong bếp mỗi sớm. Không chỉ để sưởi ấm gian nhà, mà để giữ cho ngọn lửa niềm tin với Đảng không tắt như cách bà đã làm suốt hơn 40 năm qua: cứu người bằng nắm lá thuốc rừng, gắn bó với dân bằng tấm lòng son sắt…

Với người dân nơi đây, bà không chỉ là người thầy thuốc mà còn là “mẹ Thanh giữ Đảng” - người âm thầm thắp sáng niềm tin giữa đại ngàn Trường Sơn.

Quyết định định mệnh

Đường đất đỏ lên Mò Ó giữa trưa nắng rát, gió Lào hun khô từng vạt sắn. Qua hết những khúc cua gập ghềnh, căn nhà tôn đơn sơ hiện ra; tro bếp vẫn hồng, mùi thuốc rừng phảng phất. Trên kệ gỗ, lẫn giữa sổ bệnh và sổ hiến đất là cuốn sổ nghị quyết cũ. Bà Hồ Thị Thanh cười hiền: giấy tờ chẳng ghi hết đâu. Bản còn, chi bộ còn, cũng nhờ những thứ này.

Ngọn lửa trong bếp cháy âm ỉ, giữ lại ký ức của một quyết định định mệnh. Cuối năm 1982, vừa tốt nghiệp y sĩ ở Huế, cô sinh viên Hồ Thị Thanh được phân công về Trạm y tế khu vực xã Hướng Linh. “Lúc ấy tôi mừng lắm”, bà nhớ lại. Nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang. Trước khi tiếp nhận nhiệm vụ, bà xin phép về thăm gia đình ba ngày. Tin vui vừa báo, bà nội nắm tay: cháu được cấp trên tin tưởng, bà mừng lắm. Nhưng hôm qua ở bản có hai bà mẹ mất sau sinh, tội nghiệp hai đứa nhỏ không ai chăm. Trên chỗ cháu làm còn có cán bộ y tế, chứ ở đây thì chẳng ai lo.

Bà Hồ Thị Thanh (ngoài cùng bên phải) trò chuyện với bà con thôn Phú Thiềng. Ảnh: Hải Phong

Bà Hồ Thị Thanh (ngoài cùng bên phải) trò chuyện với bà con thôn Phú Thiềng. Ảnh: Hải Phong

Hôm sau, cô gái trẻ lặn lội sang tận mắt nhìn hai đứa trẻ mồ côi, lòng đau thắt. Hình ảnh ấy cứa sâu vào tâm trí, theo suốt dọc đường về. Đêm đó, cô trằn trọc: đi theo quyết định nghĩa là có chỗ làm, có phụ cấp, một con đường tương lai yên ổn; còn ở lại thì... “Tôi nghĩ mãi. Rốt cuộc, tôi chọn ở lại”, bà Thanh nói, mắt hoe đỏ như sống lại phút giây định mệnh.

Những tháng đầu trở về Phú Thiềng, bà Thanh lặn lội đến từng hộ, gõ cửa từng nếp nhà: vận động rửa tay sạch, đun nước sôi; dặn phụ nữ mang thai không dựng chòi sinh một mình ở bìa rừng… Nhưng những tiếng khóc tiễn đưa vẫn nối dài. Hồ Thị Lộc mất vì sót rau nhiễm trùng. Hồ Thị Đăm, Hồ Thị Đinh băng huyết sau sinh… “Mỗi lần như thế, tôi chỉ biết khóc, xót lắm. Nhưng rồi tự nhủ, phải kiên nhẫn để bà con tin mình”, bà Thanh nghẹn giọng.

Tháng 8/1983, dịch sởi lan khắp bản. Nghe tin hai đứa trẻ sốt cao, ho dữ dội, bà vội chạy tới. Hai cháu nặng nhất, bà động viên gia đình bồng đi bệnh viện tỉnh. Đường xa, xe máy không có, ô tô lên xuống rất ít, đến 15 giờ chiều mới có chuyến; bệnh viện chỉ cứu được một cháu… Những trẻ còn lại, bà cùng dân bản hái lá, sắc nước cho uống, lau người hạ sốt. May mắn, chúng đều khỏi. “Lúc ấy, tôi nghĩ mình mới hoàn thành được một phần rất nhỏ trong kế hoạch tự đặt ra cho bản thân”, bà hồi tưởng.

Rồi bà Thanh kể tiếp câu chuyện sáng 25/2/1984. Sau khi giã gạo, bà xuống suối tắm. Nghe tin bên kia suối có sản phụ ba ngày chưa sinh được, bà vội chạy sang. Trong căn lều dựng tạm, thầy mo đang cúng; người mẹ lạnh ngắt, gần kiệt sức. Bà xin phép thầy mo và họ hàng, năn nỉ rất lâu, cuối cùng gia đình mới gật đầu cho bà đỡ đẻ. Đến 17 giờ chiều, tiếng khóc trẻ sơ sinh vang lên, cả bản òa mừng. Bước ngoặt ấy khiến bà con tin hẳn vào bàn tay bà, dần bỏ hủ tục rừng già…

Từ đó, gánh vác trên vai bà càng nặng. Ban ngày vận động tiêm chủng, hướng dẫn vệ sinh; ban đêm, hễ có người đau là bà lại trèo đèo, lội suối, bà con dùng ống tre thắp đuốc soi đường. “Có đêm mệt quá nhưng vẫn phải đi, vì chỉ cần mình bỏ cuộc, một sinh mạng có thể mất” bà nói.

Cũng những năm ấy, nhiều đứa trẻ mồ côi, thiếu thốn nhưng ham học. Bà Thanh nhận các em như con, làm chỗ dựa khi buồn tủi, nuôi hy vọng mai này các em sẽ thay bà giúp lại bản làng.

Từ nắm lá thuốc đến những trang nghị quyết

Bản làng Vân Kiều nghèo đến quắt queo. Đàn bà bụng vượt mặt vẫn bẻ sắn, gùi củi, lội qua suối. Trẻ nhỏ ho sụt sịt, tóc hoe nắng. Giữa thiếu thốn, niềm tin vào “bà Thanh” dần bền chặt. Hễ có người đau, người ta đi gọi; hễ có ca sinh khó, người ta chạy đến bếp bà - nơi lúc nào cũng đỏ tro, chảo nước sôi sùng sục, sẵn gói bông băng gom góp.

Người ta quen miệng gọi bà là “trạm xá di động”: từ bìa lịch làm sổ bệnh, từ nắm lá rừng thành phương thuốc. Người ốm không còn tìm thầy mo trước, mà gọi “bà Thanh” đầu tiên. Một cán bộ thôn Phú Thiềng nhớ lại: hồi đó Chi bộ gần như tê liệt. Bà con tin thầy mo hơn cán bộ. Nhờ việc làm của bà Thanh, niềm tin quay trở lại. Người dân tìm đến trạm xá chứ không còn tìm đến thầy cúng.

Năm 1985, thấy bà đi suốt ngày đêm, vừa vất vả vừa khó bảo đảm cho người bệnh khác, bà con đề nghị UBND xã Mò Ó (trước sáp nhập) bố trí cho bà một chỗ làm việc cố định. Nửa gian nhà xã được ngăn lại, thành trạm xá đầu tiên của bản. Tháng 1/1996, bà nhận khoản phụ cấp đầu tiên: 350.000 đồng. Số tiền tuy nhỏ nhưng với bà là thêm thuốc cho dân nghèo, thêm xăng cho những chuyến xe đưa bệnh nhân đi viện. Cũng từ năm đó, bà được giao làm Trưởng trạm. Tủ gỗ nhỏ chất đầy sổ bệnh, chữ nhòe mồ hôi rừng. Nắng hay mưa, căn phòng nửa gian nhà xã vẫn sáng đèn khuya.

Một dấu mốc lớn đã đến. Năm 2004, sau bầu cử đại biểu HĐND các cấp, bà được điều động sang làm Chủ tịch UBND xã Mò Ó. Bà không khỏi băn khoăn vì nửa đời mình đã gắn bó cùng bà con qua từng ca bệnh, từng nỗi khó. Biết tin, bà con quyến luyến, còn cấp trên động viên: “Cơ sở y tế huyện, tỉnh nay đã khang trang, chị Thanh chỉ đổi nơi công tác, khi nào cần cứ tìm chị.” Nhận nhiệm vụ mới, bà Thanh vẫn đều đặn trở lại với bản, với người dân mỗi khi có người đau ốm hay cần đến...

Lý giải việc đến tận hôm nay vẫn gắn bó với bản, với chi bộ, bà chậm rãi chia sẻ: suốt bao năm, nếu không có sự đồng thuận của bà con, của đảng viên, tôi không làm được gì… Rồi bà nhấn mạnh một dấu mốc khác: trước năm 2004, nhiều chi bộ xã không có nổi một đảng viên nữ. Từ năm 2004, cấp trên chú trọng phát triển đảng viên nữ. Chi bộ nơi bà sinh hoạt, tỷ lệ nữ lên tới 43%. Đến năm 2005, xã đã có Đảng bộ vì số lượng đảng viên tăng…

“Dẫu vậy, phát triển đảng vẫn rất khó, nhất là khi thanh niên - cả nam lẫn nữ đi làm ăn xa. Không ít chị em mải mưu sinh, chăm lo gia đình nên lỡ cơ hội phấn đấu. Tôi chỉ mong cấp trên quan tâm hơn công tác phát triển đảng viên nữ, kể cả ở các doanh nghiệp”, bà Thanh chia sẻ.

Từ nắm lá thuốc đến những trang nghị quyết - đó là cả một hành trình chuyển hóa: từ niềm tin tự phát của dân bản thành niềm tin có tổ chức vào Đảng. “Không có bà Thanh, hủ tục chắc còn dài lắm. Nay bà con đẻ ở nhà có y tá đỡ, trẻ con sống nhiều hơn, bản làng vui hơn”, một già làng chia sẻ.

Nhiều năm ở cương vị Chủ tịch rồi Bí thư xã, bà Thanh vẫn xỏ dép nhựa, gùi túi vải đi khắp bản. Việc gì dân ngại, bà làm trước. Có tin đồn thất thiệt, bà đến từng nhà, ngồi bên bếp lửa gỡ từng lớp hoài nghi… Lãnh đạo xã Hướng Hiệp chia sẻ: uy tín của bà Thanh không nằm ở chức vụ. Nó đến từ những năm tháng bà đi cùng dân, lội suối, trèo đèo. Bà nói gì bà con cũng nghe, vì người ta tin vào việc bà đã làm. Chính từ “việc đã làm” ấy, Chi bộ Phú Thiềng có chỗ đứng vững: nghị quyết không còn là tờ giấy xa lạ, mà trở thành chỉ dẫn gắn với từng ca tiêm chủng, từng đường mương, từng hộ thoát nghèo.

Rời chức vụ, bà Thanh trở về căn nhà tôn cũ, tiếp tục vai “người uy tín”. Hơn 40 năm, phần thưởng thật sự của bà có lẽ là những đứa trẻ từng suýt bị chôn theo mẹ nay đã thành cô giáo, thành cán bộ xã. Mỗi lần trở về, chúng ôm vai bà, rưng rưng: "Mẹ Thanh còn khỏe không?”…

Từ những giọt nước mắt đêm mưa đến nụ cười của lớp trẻ hôm nay, một mạch nguồn liền lạc đã chảy qua đời bà: mạch nguồn của y đức hóa thành dân vận, của dân vận hóa thành nghị quyết sống trong đời sống bản làng. Nguyên Bí thư Huyện ủy Đakrông (trước sáp nhập) Nguyễn Trí Tuân khẳng định: ở những xã vùng cao như Quảng Trị, nhiều năm, niềm tin của dân vào Đảng đến từ những bước chân, bàn tay của những người phụ nữ như bà Hồ Thị Thanh. Chính họ giữ được sợi dây nối dân với tổ chức trong những lúc khó khăn nhất.

Chiều muộn rời Phú Thiềng, gió núi hun hút thốc qua đồi. Con đường đất đỏ vẫn in dấu dép nhựa - những dấu chân từng gùi gạo, gùi thuốc, gùi cả chi bộ. Nếu Ka Đay có Hồ Thị Nam giữ Đảng bằng bước chân gõ cửa, Châu Sơn có La Thị Vân trộn vữa lội bùn dựng Chi bộ, thì Phú Thiềng có Hồ Thị Thanh - người gắn kết Chi bộ bằng nắm lá thuốc rừng và một bếp lửa luôn rực cháy.

Diệp Anh - Đào Cảnh - Trần Tâm - Khánh Duy - Xuân Hoa

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/nhung-nu-dang-vien-giu-lua-giua-dai-ngan-bai-3-nam-la-thuoc-cua-me-thanh-10390554.html