Nước sạch nông thôn 'khát vốn', doanh nghiệp quay lưng vì lợi nhuận thấp
Giai đoạn 2021-2025, lĩnh vực nước sạch nông thôn thiếu gần 16.000 tỷ đồng vốn đầu tư. Trong khi đó, hàng nghìn công trình cấp nước hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp không mặn mà với vùng sâu, vùng xa.
Cả nước có 18.109 công trình cấp nước tập trung, trong đó khoảng 7.800 công trình có quy mô công suất cấp nước bằng hoặc lớn hơn 50 m3/ngày đêm.
Xét về hiệu quả hoạt động, có 32% công trình hoạt động bền vững; 26,3% công trình hoạt động tương đối bền vững; 27% công trình kém bền vững và 14,8% công trình không hoạt động.
Như vậy, số công trình kém bền vững và không hoạt động lên tới 41,8%, ảnh hưởng đến khoảng 200.000 hộ (chiếm 1,2% dân số nông thôn). Các công trình này có quy mô rất nhỏ (công suất dưới 50 m3/ngày đêm) và được đầu tư trước năm 2010.
Dữ liệu trên được ông Giáp Mai Thùy, Phó Trưởng phòng Quản lý Nước sạch nông thôn, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT), đưa ra tại Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh”, diễn ra ngày 16/10.
Ông Thùy cũng cho biết, nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực nước sạch nông thôn còn hạn chế. Giai đoạn 2021-2025, lĩnh vực nước sạch nông thôn cần khoảng 29.200 tỷ đồng, trong khi đến nay mới huy động được 13.400 tỷ đồng, còn thiếu gần 16.000 tỷ đồng.

Doanh nghiệp ít quan tâm đến đầu tư nước sạch nông thôn. Ảnh: Thu Thủy
Toàn quốc hiện có khoảng 68% hộ dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn. Theo Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi - ông Lương Văn Anh, mục tiêu đến năm 2030, sẽ nâng tỷ lệ trên lên 80%. Do đó, cần sự quan tâm và đầu tư mạnh hơn cho lĩnh vực nước sạch nông thôn, trong đó trọng tâm là thu hút đầu tư xã hội hóa vào cấp nước nông thôn.
Tuy nhiên, ông Anh nhận xét đang có sự chênh lệch giữa các vùng miền trong xã hội hóa cấp nước nông thôn.
Cụ thể, miền Bắc có nền tảng công trình cấp nước tốt do quá trình đầu tư sớm, với quy mô tập trung và hệ thống xử lý đầy đủ từ nhiều năm trước. Hệ thống cấp nước liên xã có quy trình quản lý tương đối chặt chẽ, ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân tham gia vận hành, khai thác.
Ngược lại, nhiều tỉnh miền Trung và Tây Nguyên gặp khó khăn do đặc điểm địa hình rải rác, dân cư thưa thớt, dẫn đến việc đầu tư bị chia nhỏ, thiếu đồng bộ, không hấp dẫn nhà đầu tư tư nhân.
“Nhà nước đã đầu tư hết ở những vị trí thuận lợi, gần nguồn nước, dân cư đông đúc. Trong khi đó, những vùng khó, địa hình hiểm trở, nhu cầu phân tán, doanh nghiệp không mặn mà”, ông nói.
Liên quan đến đầu tư và xã hội hóa trong lĩnh vực nước sạch nông thôn, ông Phạm Văn Mạnh, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam, cũng cho rằng đây là lĩnh vực khó thu hút doanh nghiệp bởi giá nước hiện còn thấp, trong khi chi phí đầu tư hạ tầng lớn, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
Về vấn đề này, ông Lương Văn Anh cho biết, Bộ NN&MT đã hoàn thiện dự thảo nghị định mới về quản lý nước sạch nông thôn. Trong đó, Nghị định quy định rõ từ khâu đầu tư, quản lý vận hành đến cơ chế huy động vốn xã hội hóa.
Nghị định này kỳ vọng sẽ khắc phục những bất cập hiện nay, tạo hành lang pháp lý để thu hút doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ nước sạch.
Bên cạnh đó, Nhà nước sẽ cần dành nguồn lực ưu tiên cho các vùng khó khăn, miền núi, biên giới và hải đảo - những nơi doanh nghiệp khó đầu tư do chi phí cao, hiệu quả thấp.