Phải có dự án thí điểm làm 'ra tấm, ra món' để cải tạo sông Tô Lịch
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh đề nghị cần phải có câu trả lời rõ hơn đối với thực trạng ô nhiễm môi trường ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM để từ đó có giải pháp khắc phục…
Chiều 26-9, tiếp tục chương trình phiên họp 49, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về báo cáo kết quả giám sát của Đoàn giám sát của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.
Ô nhiễm môi trường ở khu vực đô thị phức tạp
Trình bày báo cáo giám sát, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và môi trường Lê Quang Huy, Phó trưởng đoàn thường trực Đoàn giám sát, cho hay từ khi Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020 có hiệu lực, việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT đã ghi nhận nhiều kết quả nổi bật. Từ đó, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo đảm quốc phòng – an ninh, an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.
Từ năm 2022 đến nay, Việt Nam đã ban hành thêm 41 quy chuẩn, 61 tiêu chuẩn và bốn định mức kinh tế - kỹ thuật về BVMT. Chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tăng, đứng tốp đầu ASEAN. Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp môi trường luôn đảm bảo không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách (năm 2024 đạt 1,12%), nguồn lực xã hội hóa, đầu tư từ doanh nghiệp cũng chuyển biến tích cực.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và môi trường Lê Quang Huy, Phó trưởng đoàn thường trực Đoàn giám sát. Ảnh: Quốc hội
Tuy vậy, Đoàn giám sát cũng chỉ ra nhiều hạn chế. Một số quy định của Luật BVMT 2020 chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, thiếu đồng bộ với các luật khác; nhiều văn bản hướng dẫn thi hành còn chậm, nhất là về thị trường carbon, lộ trình chuyển đổi phương tiện giao thông, kế hoạch kinh tế tuần hoàn. Nhiều địa phương ban hành chậm quy định thuộc thẩm quyền, nhất là về phân loại rác tại nguồn, giá dịch vụ thu gom, xử lý.
“Việc xử lý ô nhiễm môi trường ở một số nơi chưa kịp thời, đặc biệt ô nhiễm không khí, nước tại các đô thị lớn và lưu vực sông còn diễn biến phức tạp. Hạ tầng thu gom, xử lý nước thải đô thị, chất thải rắn còn lạc hậu, hình thức chôn lấp chiếm tỉ lệ cao” - ông Huy cho hay.
Công tác phân loại rác tại nguồn triển khai chậm, hạ tầng tái chế chất thải đặc thù còn hạn chế. Nhiều địa phương còn đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan BVMT, có vụ việc phức tạp gây mất trật tự. Việc hình thành thị trường công nghệ, công nghiệp môi trường và đổi mới công nghệ sản xuất còn chậm; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa đủ tính răn đe.
Nguyên nhân chủ yếu theo Đoàn giám sát là nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy, chính quyền, doanh nghiệp, người dân về BVMT chưa đầy đủ; công tác tuyên truyền pháp luật thiếu đổi mới; đội ngũ cán bộ, nguồn lực đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu; phối hợp liên ngành còn hạn chế; sự tham gia của cộng đồng, Mặt trận, đoàn thể chưa mạnh mẽ.
Đoàn giám sát nêu rõ trách nhiệm trước hết thuộc các cơ quan, đơn vị chủ trì tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật chưa đảm bảo tiến độ; các bộ, ngành, địa phương chậm ban hành quy định, chưa bố trí đủ nguồn lực; Chính phủ, Thủ tướng và chính quyền địa phương có trường hợp chậm chỉ đạo xử lý triệt để vấn đề môi trường; công tác giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp có lúc chưa thường xuyên, chưa theo đến cùng các kiến nghị.
Làm rõ hơn thực trạng ô nhiễm môi trường ở các đô thị lớn
Góp ý vào báo cáo, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh đề nghị báo cáo giám sát cần đưa ra cái nhìn rõ ràng hơn về thực trạng nguồn phát thải tại các đô thị lớn như TP.HCM, Hà Nội, từ đó đưa ra giải pháp khắc phục.
“Cần xác định cụ thể phát thải từ công nghiệp, xây dựng, phương tiện giao thông, bụi mịn và các loại khí thải khác để có giải pháp sát thực tế hơn. Khi nhận diện được nguồn phát thải thì các giải pháp đưa ra mới hiệu quả” - ông Vinh nói.

Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh. Ảnh: QH
Về việc xử lý rác thải rắn, theo ông ông Vinh, hiện việc xử lý rác ở các đô thị lớn đã có tiến bộ nhưng vẫn còn bất cập. Cụ thể, như các nhà máy xử lý rác ở Nam Sơn (Hà Nội) hay Đa Phước (TP.HCM) - dù là các cơ sở xử lý rác thải lớn nhưng vẫn gặp khó khăn trong xử lý chất thải rắn. Còn tại nông thôn, biện pháp phổ biến vẫn là gom lại đốt nhưng nếu không có công nghệ đảm bảo thì đốt rác lại gây ô nhiễm.
“Một số địa phương, doanh nghiệp đã đề xuất dự án biến rác thải thành năng lượng, nhưng vấn đề pháp lý và kỹ thuật vẫn còn nhiều vướng mắc. Do đó, cần có chính sách rõ ràng hơn về phân loại rác tại nguồn để giảm áp lực cho khâu xử lý sau” - ông Vinh nói.
Về nước thải, ông Vĩnh dẫn báo cáo cho thấy 97% khu công nghiệp đã có hệ thống xử lý nước thải và nhấn mạnh “đây là điều đáng ghi nhận”. Tuy nhiên, cần đánh giá thêm nước thải từ các làng nghề, các cơ sở sản xuất nhỏ và các nguồn thải khó xử lý trước khi đổ ra sông, vì chúng ảnh hưởng rất lớn đến môi trường nước.
“Chúng ta cần tập trung giảm nguồn phát thải ngay từ đầu, như điều chỉnh quy hoạch, áp dụng công nghệ sạch hơn trong sản xuất, phân loại rác tại nguồn, bố trí đầy đủ điểm thu gom rác. Việc phân loại từ gốc sẽ giúp khâu xử lý giảm tải rất nhiều" - ông Vinh nói và đề nghị báo cáo cần có thêm số liệu cụ thể, cũng như các giải pháp ngắn hạn, cấp bách để giải quyết ngay một số vấn đề nổi cộm.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh. Ảnh: QH
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh cho hay theo báo cáo, hiện mới xử lý được 18% nước thải đô thị, tức là hơn 80% còn xả thẳng ra môi trường gây ô nhiễm. Theo bà, vấn đề xử lý nước thải đô thị là vấn đề lớn, cần phải có những dự án “ra tấm, ra món” để cải thiện môi trường cho các đô thị.
“Ngay tại Hà Nội, sông Tô Lịch, con sông bị ô nhiễm nhiều năm nhưng chưa có dự án đủ tầm để cải tạo lại, trong khi chúng ta đã từng đầu tư nhiều tuyến đường vành đai, hạ tầng chiến lược. Do vậy, tôi đề nghị cân nhắc một dự án thí điểm làm “ra tấm ra món” để cải tạo môi trường cho sông Tô Lịch, có thể học hỏi kinh nghiệm như suối Cheonggyecheon (Thanh Khê) của Hàn Quốc” - bà Thanh nói.
Đồng thời, bà cũng đề nghị cần hướng tới các công nghệ xử lý rác thải rắn hiện đại hơn thay cho công nghệ xử lý rác “chôn lấp hợp vệ sinh” như hiện nay.
“Hiện cả nước mới có năm nhà máy đốt rác phát điện. Đề nghị Chính phủ chọn một số thành phố lớn đầu tư các nhà máy xử lý rác hiện đại, không chỉ phát điện mà còn tạo ra các sản phẩm khác từ rác, như vật liệu xây dựng… để tạo bước đột phá, khích lệ, tạo cạnh tranh giữa các địa phương” - bà Thanh nhấn mạnh.
Ưu tiên xử lý các điểm nóng về môi trường
Giải trình làm rõ hơn ý kiến tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quyền bộ trưởng Bộ NN&MT Trần Đức Thắng, khẳng định bên cạnh những kết quả tích cực, báo cáo cũng thẳng thắn chỉ ra các hạn chế cần khắc phục. Có thể kể đến như một số quy định của pháp luật chưa theo kịp thực tiễn; việc ban hành văn bản của Bộ NN&MT, các địa phương và các bộ, ngành liên quan còn bất cập; tình trạng ô nhiễm không khí, nước, rác thải sinh hoạt ở nhiều địa phương vẫn diễn biến phức tạp, chưa đạt yêu cầu đề ra.
“Báo cáo cũng đã nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị liên quan đối với những hạn chế, bất cập này” - ông Thắng nhấn mạnh.
Ông Thắng cho hay thời gian tới, Bộ NN&MT sẽ tập trung vào bốn nhiệm vụ trọng tâm, gồm: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý theo hướng đồng bộ, đột phá, mang tầm chiến lược và sát với thực tiễn; đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số và khoa học công nghệ để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường; thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh và bền vững, kiên quyết triển khai các giải pháp để kinh tế xanh, kinh tế carbon thấp trở thành động lực quan trọng cho phát triển đất nước.
“Đặc biệt, tập trung chỉ đạo quyết liệt xử lý dứt điểm các “điểm nóng” về môi trường, coi đây là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, đồng thời triển khai thí điểm một số mô hình để nhân rộng” - ông Thắng nhấn mạnh.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà. Ảnh: QH
Tham gia thêm ý kiến, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà khẳng định Luật Bảo vệ môi trường 2020 lđược quốc tế đánh giá là “toàn diện và tiến bộ”. Tuy nhiên theo ông, dù luật đã quy định nhiều nguyên tắc về các công cụ kinh tế nhưng việc triển khai trên thực tế còn nhiều hạn chế.
“Chẳng hạn, thuế môi trường đối với xăng dầu hiện nay chưa phát huy được hiệu quả như một công cụ kinh tế. Cần rà soát lại các loại thuế, phí, định mức, đơn giá để bảo đảm đúng tinh thần của Luật” - ông Hà nói.
Tương tự, về hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật dù đã ban hành nhiều văn bản nhưng nhiều quy chuẩn, tiêu chuẩn còn thiếu hoặc chưa cập nhật, nhất là trong xử lý chất thải rắn, chất thải y tế và các lĩnh vực khác.
Về đầu tư cho môi trường, theo Phó Thủ tướng, trong luật đã nêu rõ yêu cầu phục hồi môi trường, xử lý ô nhiễm lưu vực sông, làng nghề… nhưng thực tế nguồn lực đầu tư còn rất hạn hẹp, không chỉ ở địa phương mà cả từ Trung ương.
Bên cạnh đó, việc tích hợp yêu cầu môi trường trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, dù được chỉ rõ là “là nguyên tắc quan trọng” nhưng đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, cần làm rõ tiêu chuẩn công nghệ, phương án chuyển đổi, lựa chọn công nghệ tối ưu… để bảo đảm ngay từ khâu chuẩn bị dự án.
Bộ máy và nhân lực thực hiện nhiệm vụ môi trường cũng đang thiếu, từ Tổng cục xuống các cục, địa phương nhiều khi chỉ có vài cán bộ. Muốn xã hội hóa, huy động doanh nghiệp tham gia thì cần có quy định cụ thể về tiêu chuẩn, số lượng cán bộ và cơ chế kiểm soát.
"Tôi đề nghị báo cáo nên tách bạch rõ phần “đã làm được” và “chưa làm được”, chỉ ra cụ thể từng vấn đề, văn bản, đơn vị chịu trách nhiệm. Từ đó nêu các kiến nghị, giải pháp cấp bách để triển khai ngay sau đợt giám sát này, trước hết là khắc phục ô nhiễm và bảo đảm thực hiện đúng tinh thần Luật Bảo vệ môi trường. Đồng thời phải rà soát, điều chỉnh các luật liên quan đến công cụ kinh tế, phí, đầu tư… để đồng bộ với Luật Bảo vệ môi trường” - Phó Thủ tướng nói.