Pháp luật 4 phương: Chế định Luật sư công Trung Quốc và những gợi mở đối với Luật sư công Việt Nam

Bài viết được giới hạn trong khái niệm Luật sư công, cơ chế hoạt động đánh giá, giám sát Luật sư công, các chế tài đối với Luật sư công để các nhà làm luật, hoạch định chính sách tham khảo, xây dựng chính sách pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế chính trị pháp lý của Việt Nam, đồng thời học hỏi có chọn lọc mô hình Luật sư công tại Trung Quốc hiện nay.

Mở đầu

Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc nâng cao năng lực pháp lý trong khu vực công - đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ngày càng trở nên cấp thiết. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và quá trình chuyển đổi số trong quản trị công, hệ thống pháp luật ngày càng phức tạp, đòi hỏi các cơ quan Nhà nước không chỉ có năng lực làm luật, mà còn phải có năng lực “tự vệ pháp lý”.

Việt Nam là quốc gia tương đồng với Trung Quốc là về thể chế chính trị, pháp luật, văn hóa xã hội, chế định luật sư công Trung Quốc đã và đang thực hiện từ năm 2015 đến nay. Qua nghiên cứu, Việt Nam chúng ta có thể tham khảo, tiếp thu những hạt nhân hợp lý để xây dựng chế định luật sư công,

Bài viết được giới hạn trong khái niệm Luật sư công, cơ chế hoạt động đánh giá, giám sát Luật sư công, các chế tài đối với Luật sư công để các nhà làm luật, hoạch định chính sách tham khảo, xây dựng chính sách pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế chính trị pháp lý của Việt Nam, đồng thời học hỏi có chọn lọc mô hình Luật sư công tại Trung Quốc hiện nay.

Quá trình hình thành phát triển hệ thống Luật sư Trung QuốcQuá trình hình thànhHệ thống Luật sư Trung Quốc ra đời và phát triển trong suốt cuộc chiến tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Từ những năm 1932, Ủy ban chấp hành Trung ương Cộng hòa Xô Viết - Trung Quốc đã ban hành “Quy định Tổ chức và xét xử lâm thời của Tòa án”, thiết lập chế độ bào chữa trong Tố tụng. Sau đó Hiến pháp Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được ban hành ngày 20/09/1954 quy định “quyền bào chữa của bị cáo”, lần đầu tiên thiết lập chế định về bào chữa như một luật cơ bản. Năm 1955, hệ thống Luật sư được thí điểm triển khai tại 26 thành phố lớn trong đó bao gồm Bắc Kinh, Thượng Hải và Thiên Tân (1).

Sau đó vào năm 1957, Bộ Tư pháp đã xây dựng dự thảo “Quy định lâm thời về Luật sư”, dần dần hình thành hệ thống luật sư và nghề luật sư. Hệ thống Luật sư trong giai đoạn này được mô phỏng theo hệ thống Luật sư Liên Xô. Các Luật sư được liệt vào hàng ngũ công chức nhà nước, dưới sự quản lý của các cơ quan tư pháp. Từng địa phương có văn phòng tư vấn pháp luật của Nhà nước do Luật sư công hành nghề.

Hoạt động của các Luật sư thu phí rất thấp theo quy định của Nhà nước. Sau đó nghề luật sư bị đình trệ, do đất nước Trung Quốc trải qua thời kì quá độ chủ nghĩa xã hội.

Đến kì họp thứ 1 Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 5 năm 1978, Hiến pháp được sửa đổi, hệ thống Luật sư được khôi phục, khẳng định vai trò của Luật sư trong hệ thống pháp luật Trung Quốc.

Phát triển hệ thống Luật sư Bộ Tư pháp được tái thành lập vào tháng 9 năm 1979, đến tháng 12 cùng năm Bộ đã ban hành “Thông báo của Bộ Tư pháp về công tác Luật sư”, văn bản này là điều kiện quan trọng để khôi phục nghề Luật sư. “Quy định tạm thời về Luật sư” được thông qua vào ngày 26/8/1980, đây là văn bản đầu tiên quy định về Luật sư kể từ khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trong đó, Luật sư được định nghĩa là “nhân viên pháp lý quốc gia”, đưa Luật sư vào biên chế của các cơ quan Tư pháp với tư cách là công chức nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, chịu sự quản lý của Bộ Tư pháp (2).

Để phát triển hệ thống Luật sư, đáp ứng cho nhu cầu cải cách, phát triển kinh tế, dân chủ và pháp quyền, tại kì họp thứ 19 Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa VIII đã thảo luận, thông qua Luật Luật sư vào ngày 15/5/1996 (3). Luật này quy định rõ Luật sư không còn được coi là công chức nhà nước mà hành nghề tự do, Luật sư hành nghề cung cấp dịch vụ pháp lý cho xã hội. Các công ty, văn phòng Luật không còn trực thuộc Nhà nước mà là tổ chức hành nghề như những doanh nghiệp ngoài nhà nước.

Luật Luật sư được sửa đổi vào năm 2001, 2007, 2012 và 2017 (4). Qua các lần sửa đổi, về cơ bản đã quy định tương đối đầy đủ các khía cạnh của hoạt động nghề Luật sư, quản lý Luật sư và công ty Luật. Hệ thống quản lý Nhà nước đối với nghề Luật sư đã được quy định rõ ràng, minh bạch. Luật sư đã trở thành lực lượng quan trọng trong hệ thống pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Dịch vụ pháp lý đã mở rộng ra các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, các Luật sư cũng được mở rộng gồm Luật sư tư nhân, Luật sư công chức, Luật sư doanh nghiệp, Luật sư bán thời gian, Luật sư quân đội, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý.

Luật sư Trung Quốc đã có sự tăng trưởng đáng kể về số lượng và chất lượng. Ban đầu chỉ có 212 Luật sư vào năm 1979, phát triển đến 707.000 Luật sư vào năm 2023, ước tính tăng hơn 3000 lần trong 40 năm (5). Luật sư là một lực lượng không thể thiếu trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc.

Trong bối cảnh khuôn khổ phát triển hệ thống Luật sư, nghề Luật sư theo chế độ pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vào năm 2016, Văn phòng Trung ương Đảng và Quốc Vụ viện (Chính Phủ) ban hành ý kiến và thí điểm để thúc đẩy chế độ luật sư công (bao gồm Luật sư công chức, Luật sư doanh nghiệp), đáp ứng nhu cầu chuyên môn pháp lý trong các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước, để đảm bảo sự phù hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, các nguyên tắc của Hiến pháp và pháp luật.

Khái niệm Luật sư công Khái niệm “Luật sư công” (public lawyer hoặc government lawyer) trong nghiên cứu hiện đại thường được hiểu là những luật sư chuyên trách, làm việc trong các cơ quan nhà nước hoặc tổ chức công nhằm thực hiện các chức năng pháp lý đại diện cho Nhà nước.

Họ có thể được tuyển dụng như công chức, viên chức hoặc hợp đồng chuyên môn, với trách nhiệm bảo vệ lợi ích công cộng, bảo đảm tính hợp pháp trong quản trị và hỗ trợ xây dựng chính sách Nhà nước.

Trong nghiên cứu học thuật tại Trung Quốc, đã có một số khái niệm khác nhau về Luật sư công. Một số quan điểm coi Luật sư công như là những Luật sư chuyên ngành, những người có chứng chỉ hành nghề Luật sư làm việc trong bộ phận, cơ quan Chính phủ, hoặc thực hiện các chức năng của Chính phủ (6). Quan điểm này nhấn mạnh đến tính chuyên môn của Luật sư thực hiện nhiệm vụ trong cơ quan Nhà nước.

Một số quan điểm khác cho rằng Luật sư công là công chức toàn thời gian, có chứng chỉ hành nghề Luật sư và cung cấp dịch vụ pháp lý cho cơ quan nhà nước (7). Khái niệm này đã khái quát hóa được Luật sư công là những công chức, có chứng chỉ hành nghề luật sư, thực hiện nhiệm vụ cho cơ quan nhà nước.

Một số quan điểm khác bổ sung hơn, cho rằng Luật sư công là những công chức có trình độ pháp luật, có chứng chỉ hành nghề Luật sư và cung cấp dịch vụ pháp lý trong cơ quan của Đảng, Chính phủ, các doanh nghiệp Nhà nước (8).

Thông qua chính sách cải cách thể chế pháp lý, căn cứ vào thực tiễn công tác của Luật sư công, tăng cường phát triển đội ngũ Luật sư công, chuẩn hóa công tác, chức năng của Luật sư công trong quản lý nhà nước toàn diện theo pháp luật, Văn phòng Trung ương Đảng và Quốc vụ viện (Chính phủ) ban hành “Ý kiến về việc thí điểm Hệ thống Luật sư công và Luật sư doanh nghiệp” năm 2016. Sau đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Quy chế quản lý Luật sư công và Luật sư doanh nghiệp năm 2018. Theo Quy chế này, Luật sư công được được hiểu là: công chức làm việc trong các cơ quan của Đảng, Chính phủ, đoàn thể nhân dân, đã được cơ quan Tư pháp cấp chứng chỉ Luật sư công theo quy định của pháp luật và tham gia hoạt động pháp lý trong cơ quan, đơn vị mình (9).

Luật sư doanh nghiệp là những Luật sư kí hợp đồng lao động với doanh nghiệp nhà nước, được cơ quan Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và tham gia công tác pháp chế tại doanh nghiệp (10).

Luật sư công chức hay Luật sư doanh nghiệp về bản chất vẫn thực hiện các công vụ của Nhà nước, bảo vệ cho cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, đại diện cho cơ quan quyền lực công, đưa ra các tư vấn pháp lý cho lãnh đạo, đóng góp ý kiến cho việc hoạch địch chính sách pháp luật quốc gia. Khi nói đến Luật sư công thì chúng ta có thể gộp chung Luật sư công chức và Luật sư doanh nghiệp để chỉ chung cho Luật sư công Trung Quốc.
Bản sắc kép của Luật sư công kết hợp nghĩa vụ công vụ với chuyên môn pháp lý - phân biệt họ với các luật sư hành nghề tư nhân truyền thống. Luật sư công có 3 đặc điểm cốt lõi để phân biệt với Luật sư tư nhân truyền thống là: (i) Sở hữu chứng chỉ hành nghề Luật sư để đảm bảo tiêu chuẩn chuyên môn tối thiểu ngang bằng với Luật sư tư nhân; (ii) Thực hiện công việc chuyên trách trong cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước. Đặc điểm này khẳng định vị trí công vụ của Luật sư công và sự gắn bó với bộ máy hành chính công; (iii) Thực hiện các chức năng tư vấn, tranh tụng. Bao gồm tư vấn, soạn thảo đánh giá rủi ro pháp lý, các chính sách, quy phạm pháp luật, các hợp đồng thương mại, tranh tụng đối với mọi hoạt động của cơ quan, doanh nghiệp Luật sư công làm việc.

Luật sư công được coi là lực lượng nòng cốt xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Luật sư công có vai trò ngày càng then chốt trong việc nâng cao năng lực và trình độ quản lý, điều hành, hoạt động kinh doanh và quản lý dựa trên pháp luật. Có 5 nhóm nhiệm vụ chính đối với Luật sư công (11):

Thứ nhất, Luật sư công tham gia vào việc xây dựng thể chế. Luật sư công tham gia soạn thảo và thẩm định các dự thảo luật, quy định, quy chế, dự thảo điều lệ Đảng và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật để thẩm định. Luật sư doanh nghiệp tham gia xây dựng và sửa đổi các quy chế, quy định quan trọng của doanh nghiệp, chẳng hạn như điều lệ công ty và quy chế hoạt động của hội đồng quản trị, đồng thời tiến hành rà soát tính pháp lý. Điều này giúp nâng cao chất lượng xây dựng thể chế và thúc đẩy việc thực hiện hiệu quả các quy chế này.

Thứ hai, Luật sư công tham gia vào việc thẩm định quyết định. Luật sư công cùng tham gia vào việc xây dựng và thực hiện các quyết định quan trọng của các cơ quan Đảng, Chính phủ, các tổ chức nhân dân và doanh nghiệp, đưa ra ý kiến và đề xuất pháp lý, giúp phòng ngừa rủi ro pháp lý và thúc đẩy việc ra quyết định dựa trên pháp luật.

Thứ ba, Luật sư công có trách nhiệm giải quyết các vấn đề pháp lý. Luật sư công cùng tham gia đàm phán các dự án hợp tác, mua sắm của Chính phủ, thực thi pháp luật hành chính và các hoạt động khác. Luật sư công soạn thảo, sửa đổi và xem xét các văn bản pháp lý quan trọng và xử lý nhiều vấn đề pháp lý khác nhau, bao gồm kiện tụng, hòa giải thương lượng, hay giải quyết trọng tài thương mại. Điều này giúp giải quyết hiệu quả các tranh chấp khác nhau và bảo vệ quyền và lợi ích của đơn vị mình theo luật định.

Thứ tư, Luật sư công có vai trò trong giải quyết khiếu nại, khiếu kiện. Luật sư công tham gia vào việc tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, giải quyết các vụ án pháp lý và kiện tụng, xử lý các trường hợp khẩn cấp và đánh giá rủi ro ổn định xã hội đối với các vấn đề lớn. Luật sư công hướng dẫn các bên trình bày yêu cầu của mình một cách hợp lý và phù hợp với pháp luật, có lợi cho việc giải quyết xung đột và tranh chấp theo pháp luật và thúc đẩy sự hài hòa và ổn định xã hội.

Thứ năm, Luật sư công thực hiện công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật. Luật sư công, với tư cách chuyên môn của mình có trách nhiệm hướng dẫn, tư vấn trả lời các câu hỏi pháp lý, thực hiện công tác tổ chức giáo dục và đào tạo pháp luật. Điều này giúp tăng cường nhận thức pháp luật của cán bộ công chức, nhân viên doanh nghiệp và người dân nói chung, đồng thời thúc đẩy môi trường pháp lý nơi mọi người tôn trọng, học tập, tuân thủ và áp dụng pháp luật.

Hoạt động bổ nhiệm, đánh giá và chế tài Luật sư công Trung Quốc đã thiết lập một trong những hệ thống luật sư công (公职律师) bài bản, định hình một bộ phận pháp lý chuyên nghiệp trong bộ máy hành chính, doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù Luật Luật sư Trung Quốc năm 1996 (sửa đổi năm 2001, 2007, 2012, 2017) (12) không trực tiếp quy định về chế định này, nhưng sự ra đời và thể chế hóa của chế định này là kết quả trực tiếp từ một văn bản pháp lý có tầm quan trọng đặc biệt: Chỉ thị số 36 năm 2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ viện (Chính phủ), mang tên “Ý kiến về việc thúc đẩy hệ thống tư vấn pháp luật và Chế độ Luật sư Công, Luật sư Doanh nghiệp” (13).

Đây là văn bản mang tính đột phá đã chính thức công nhận vai trò then chốt của Luật sư công, nhiệm vụ đến năm 2020 sẽ hình thành hệ thống cố vấn pháp lý, Luật sư công chức và Luật sư doanh nghiệp (gọi chung là Luật sư công) toàn diện mang đặc sắc Trung Quốc, phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội và nhu cầu dịch vụ pháp lý.

Tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm Luật sư công Trung Quốc Việc ban hành Quy chế quản lý Luật sư công và Quy chế quản lý Luật sư doanh nghiệp năm 2018 (14) của Bộ Tư pháp phản ánh hai mục tiêu chính:

Thứ nhất, luật hóa thực tiễn hành nghề pháp lý nội bộ trong các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai, thiết lập cơ chế chuyên nghiệp hóa đội ngũ

Luật sư công, nhằm bảo vệ lợi ích công, tăng tính hợp pháp, giảm rủi ro pháp lý. Về mặt lý luận, đây là bước mở rộng khái niệm “nghề Luật sư” truyền thống từ chỗ chỉ là nghề nghiệp độc lập ngoài nhà nước, nhưng nay đã trở thành chế định Luật sư công.

Quy trình bổ nhiệm luật sư công bao gồm Luật sư công chức và Luật sư doanh nghiệp tại Trung Quốc được thiết kế chi tiết dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư pháp thông qua các văn bản hướng dẫn, phản ánh sự cân nhắc kỹ lưỡng giữa năng lực pháp lý và yêu cầu của hệ thống công vụ. Cụ thể các tiêu chuẩn đều tương đương nhau như sau:

Điều 5. Người xin cấp chứng chỉ luật sư công phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

(1) Tuân thủ Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa;

(2) Có bằng cấp chuyên môn pháp luật hoặc trình độ luật sư theo quy định của pháp luật;

(3) Là công chức;

(4) Có thời gian công tác trong lĩnh vực pháp luật từ hai năm trở lên, hoặc đã đảm nhiệm chức vụ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư từ một năm trở lên;

(5) Có phẩm chất đạo đức tốt;

(6) Cơ quan, đơn vị sử dụng lao động đồng ý tuyển dụng để làm luật sư công.14

Điều kiện thứ nhất, đây là tiêu chuẩn chính trị hàng đầu khẳng định luật sư công không chỉ là chuyên gia pháp luật mà còn là người thực thi công vụ chính trị - pháp lý, gắn liền với việc duy trì trật tự hiến định.Trong bối cảnh Trung Quốc, tiêu chuẩn này còn thể hiện sự trung thành với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phù hợp với quan niệm “chính trị, pháp luật”. Có thể nhận thấy, luật sư nói chung, luật sư công nói riêng phải có bản lĩnh chính trị, tuân thủ pháp luật. Luật sư công phải đảm bảo trung thành với đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Điều 3 Quy chế: Luật sư công phải trung thành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, siêng năng, tận tâm, chấp hành nghiêm chỉnh đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật Luật sư, bảo vệ pháp luật, công bằng xã hội (15).

Điều kiện thứ hai, đảm bảo luật sư công có nền tảng pháp lý chuẩn mực (tốt nghiệp ngành luật, hoặc có bằng cấp/chứng chỉ luật sư). Quy định này đặt nền tảng cho tính nghề nghiệp - chuyên môn hóa, tương tự tiêu chuẩn quốc tế.

Điều kiện thứ ba, để phân biệt với luật sư hành nghề tư nhân. Luật sư công phải là công chức, tức là người gắn bó chặt chẽ với hệ thống quản lý nhà nước, chịu sự giám sát công vụ. Điều này tạo nên sự “lai ghép” luật sư công vừa là công chức, vừa là luật sư, chịu sự điều chỉnh trong hệ thống công quyền nhà nước và sự điều chỉnh của Luật Luật sư.

Điều kiện thứ tư, có mục đích nhằm lọc chọn ứng viên có kinh nghiệm thực tiễn pháp lý, tránh tình trạng lý thuyết suông. Nó cũng tạo ra sự luân chuyển nhân sự giữa các thiết chế pháp quyền (Tòa án, Kiểm sát, Luật sư). Từ góc nhìn quản lý nhân sự, đây là cách tận dụng “nguồn nhân lực pháp lý sẵn có” trong bộ máy nhà nước.

Điều kiện thứ năm, về phẩm chất đạo đức được đề cập đến là đạo đức nghề nghiệp song song với đạo đức công vụ. Đây là yếu tố quan trọng để bảo đảm luật sư công không lợi dụng vị trí để trục lợi, đồng thời duy trì hình ảnh “cán bộ là công bộc nhân dân”.

Điều kiện thứ sáu, đây là yếu tố quản lý hành chính đặc thù. Khác với luật sư tư nhân, luật sư công phải được cơ quan chủ quản (nơi công tác) phê duyệt, nhằm bảo đảm sự phối hợp giữa quyền hành nghề và nhiệm vụ công vụ. Điều này đồng nghĩa, luật sư công không có tính độc lập nghề nghiệp tuyệt đối, mà gắn chặt với tổ chức chủ quản. Sự cân bằng giữa tính độc lập nghề nghiệp với tính chất “hành chính” trong nhiệm vụ không phải là điều dễ dàng, vừa đảm bảo được tính độc lập tương đối của luật sư công, vừa đảm bảo nhiệm vụ cấp trên giao phó.

Điều 5 của Quy chế quản lý Luật sư công cho thấy Trung Quốc đã thiết lập một cơ chế lọc chọn - quản lý - giám sát hết sức chặt chẽ, bảo đảm luật sư công vừa có chuyên môn pháp lý vững vàng, vừa có tư cách chính trị và đạo đức phù hợp, đồng thời luôn chịu sự ràng buộc hành chính từ cơ quan chủ quản. Đây là một mô hình đặc thù, phản ánh sự dung hòa giữa nhu cầu chuyên môn hóa luật sư với yêu cầu kiểm soát chính trị của hệ thống pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc.

Đối với Luật sư doanh nghiệp, các điều kiện cơ bản tương đồng với Luật sư công chức, chỉ khác điều kiện thứ ba thay vì là công chức thì Luật sư doanh nghiệp kí kết hợp đồng lao động với doanh nghiệp Nhà nước theo quy định của pháp luật. Điều này tạo điều kiện thu hút các Luật sư ở ngoài có năng lực, muốn cống hiến cho doanh nghiệp nhà nước trở thành Luật sư công.

Về quy trình bổ nhiệm Quy chế quản lý Luật sư công, Luật sư doanh nghiệp 2018 quy định rõ để đảm bảo tìm ra ứng viên phù hợp. Các Luật sư công tương lai phải đáp ứng các tiêu chí đủ điều kiện quy định tại Điều 5, cơ quan, đơn vị tuyển dụng luật sư công nộp đơn lên cơ quan Tư pháp cấp tỉnh, kèm theo các tài liệu như chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc chứng chỉ tương đương, các giấy tờ cần thiết. Điều 9 Quy chế nêu rõ:

Cơ quan Tư pháp xem xét hồ sơ đăng ký bổ nhiệm Luật sư công. Cơ quan Tư pháp cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc cấp huyện thuộc thành phố trực thuộc Trung ương xem xét hồ sơ đăng ký bổ nhiệm Luật sư công và gửi hồ sơ đến cơ quan Tư pháp của Tỉnh, Khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương để xem xét. Sau khi xem xét, nếu người đăng ký đáp ứng các điều kiện bổ nhiệm Luật sư công và đầy đủ hồ sơ, Bộ Tư pháp hoặc cơ quan Tư pháp của tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ cấp chứng chỉ Luật sư công. Nghiên cứu triển khai hệ thống đào tạo trước khi hành nghề Luật sư công (16).

Đối với việc bổ nhiệm Luật sư công được thông qua quyết định của người đứng đầu cơ quan cấp Bộ (Bộ trưởng) hoặc người đứng đầu chính quyền địa phương (cấp tỉnh). Sự bổ nhiệm này nhấn mạnh đến trách nhiệm giải trình của Luật sư công đối với người lãnh đạo đứng đầu. Sau khi được bổ nhiệm, Luật sư công bắt buộc đăng ký quản lý danh tính với Bộ Tư pháp hoặc cơ quan Tư pháp địa phương. Quy trình này tương tự như đăng ký hành nghề Luật sư tư, nhưng khác biệt ở chỗ được cấp một mã định danh riêng để Bộ Tư pháp quản lý Luật sư công được tập trung và hiệu quả trên toàn quốc.

Theo phân tích thống kê năm 2018 do Bộ Tư pháp công bố gần đây về Luật sư và dịch vụ pháp lý cơ sở, tính đến cuối năm 2018, Trung Quốc có hơn 423.000 luật sư hành nghề, tăng 14,8% so với cuối năm 2017. Theo loại hình Luật sư, có hơn 364.000 Luật sư hành nghề toàn thời gian, chiếm 85,89%; hơn 12.000 luật sư hành nghề bán thời gian, chiếm 2,87%; hơn 31.000 Luật sư công, chiếm 7,43%; hơn 7.200 luật sư doanh nghiệp, chiếm 1,71%; hơn 7.400 luật sư trợ giúp pháp lý, chiếm 1,75%; và 1.500 Luật sư quân đội, chiếm 0,35%. Lực lượng này phân bổ chủ yếu tại các Bộ, Ủy ban Trung ương, chính quyền các tỉnh, thành phố, các viện nghiên cứu chính sách trọng yếu và tập đoàn kinh tế nhà nước lớn, trở thành một mạng lưới pháp lý nội bộ rộng khắp và có ảnh hưởng sâu sắc (17).

Cơ chế giám sát và đánh giá Luật sư côngCơ chế giám sát và đánh giá là một phần không thể thiếu để duy trì hiệu quả và tính toàn vẹn của hệ thống. Việc giám sát được thực hiện song song bởi đơn vị, cơ quan nơi Luật sư công làm việc, cơ quan Tư pháp giám sát việc tuân thủ Luật Luật sư.

Hiệp hội Luật sư giám sát về đạo đức ứng xử nghề nghiệp của Luật sư. Luật sư công phải nộp báo cáo công việc hàng năm, nêu chi tiết khối lượng công việc, kết quả tư vấn và việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, được xem xét để phù hợp với các quy tắc của Luật Luật sư. Đánh giá kết hợp các chỉ số hiệu suất, chẳng hạn như đóng góp vào quản lý rủi ro pháp lý của cơ quan, đơn vị và việc thực hiện chính sách, thường được tích hợp vào hệ thống đánh giá công chức. Để đảm bảo luật sư công hoạt động hiệu quả, minh bạch và tuân thủ chuẩn mực, Trung Quốc thiết lập một cơ chế giám sát 3 bên và đánh giá đa chiều.

Cơ chế giám sát được thể hiện dưới dạng 3 bên, Điều 4 Quy chế Luật sư công và Luật sư doanh nghiệp 2018 các cơ quan Tư pháp có trách nhiệm giám sát, chỉ đạo công việc hành nghề Luật sư công. Cơ quan, đơn vị chủ quản nơi Luật sư làm việc có trách nhiệm giám sát công việc hàng ngày của Luật sư công. Hiệp hội Luật sư là nơi quản lý việc tuân thủ các quy định Luật Luật sư và đạo đức ứng xử nghề nghiệp, đảm bảo trách nhiệm giải trình toàn diện. Cơ chế giám sát này vừa mang tính chất hành chính và tính chất nghề nghiệp.

Đối với giám sát hành chính, Luật sư công phải tuân thủ các quy định, cơ chế công vụ của cán bộ, công chức theo Luật Công chức năm 2005 (đã sửa đổi, bổ sung 2017) (18), Luật doanh nghiệp 1993 (đã sửa đổi, bổ sung 2023) (19), chịu sự quản lý của cơ quan, doanh nghiệp chủ quản. Giám sát này tập trung vào kỷ luật công vụ, thực hiện các công việc được giao và tuân thủ nội quy cơ quan.

Đối với giám sát về nghề nghiệp, đạo đức ứng xử hành nghề, Bộ Tư pháp hoặc Sở Tư pháp địa phương thực hiện giám sát về chuyên môn, nghiệp vụ đối với Luật sư công. Về đạo đức ứng xử hành nghề, Hiệp hội Luật sư có trách nhiệm giám sát Luật sư công tuân thủ các quy tắc đạo đức khi hành nghề. Cơ chế này giúp duy trì chuẩn mực nghề nghiệp chung và tính độc lập tương đối về chuyên môn của Luật sư công.

Về đánh giá hoạt động của Luật sư công, theo Quy chế năm 2018 đánh giá được thực hiện hàng năm do cơ quan, đơn vị chủ trì (Điều 21); đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ, tuân thủ đạo đức và hiệu quả công việc, các kết quả được báo cáo cho các cơ quan Tư pháp lưu trữ để tham khảo (Điều 20); ngoài ra còn đào tạo bắt buộc bao gồm giáo dục tư tưởng và nâng cao kỹ năng hành nghề Luật, thường là sự hợp tác giữa các đơn vị, Bộ Tư pháp và các hiệp hội, thúc đẩy phát triển chuyên môn liên tục.

Đặc điểm đánh giá hiệu quả của Luật sư công có tính chất định kì và định lượng. Việc đánh giá được thực hiện thường xuyên và căn cứ vào các tiêu chí rõ ràng như sau: Luật sư công phải báo cáo chi tiết về các nhiệm vụ đã thực hiện, kết quả đạt được, các khó khăn vướng mắc và các kiến nghị thực hiện.

Đánh giá chuyên môn được định lượng bằng các kết quả đầu ra của Luật sư công, đánh giá KPI cụ thể và đo lường được căn cứ các tiêu chí: Số lượng văn bản pháp lý Luật sư công đã thẩm định, soạn thảo; Số lượng và kết quả các vụ việc Luật sư công tham gia tranh tụng; Về các vụ việc tranh tụng cần xét đến các giá trị mà Luật sư công đem lại bằng việc tham gia đã đạt được những gì, có được Tòa chấp nhận hay bị bác bỏ, các vụ kiện giải quyết đạt được tại các cấp Tòa sơ thẩm, phúc thẩm, kết quả cuối cùng là giành lợi thế hay kết quả bất lợi, các nguyên nhân dẫn đến kết quả bất lợi, các thành công của Luật sư khi tham gia tranh tụng; Đánh giá về các rủi ro pháp lý mà Luật sư công đã phát hiện và ngăn chặn (trong các hợp đồng thương mại, kinh tế); Số lượng các lỗi trong quyết định hành chính, khi ban hành quyết định hành chính, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn có lỗi được phát hiện thông qua thẩm định, giúp cơ quan tránh được các quyết định chưa phù hợp, sai sót hoặc bị khiếu nại; Số lượng các buổi Luật sư công hướng dẫn, tập huấn pháp lý nội bộ trong cơ quan đang công tác hoặc các cơ quan khác.

Cụ thể, tại Cục quản lý hành chính đô thị Thượng Hải, thành phố Thượng Hải đã đưa ra “Bảng chấm điểm tình hình xử lý các vụ việc pháp lý của Luật sư công năm 2023”. Trong đó, chấm 5 điểm cho mỗi văn bản quy phạm được soạn thảo/xem xét, 5-10 điểm cho việc tham gia tố tụng (đánh giá giá trị thông qua kết quả cuối cùng), 2 điểm cho mỗi vấn đề được xác định trong quá trình xem xét hồ sơ để phòng ngừa rủi ro và 5-20 điểm cho các buổi đào tạo, tổng cộng là 100 điểm đánh giá năng lực. Luật sư công có tổng điểm đánh giá hiệu quả công tác pháp lý dưới 60 điểm sẽ bị coi là “không đủ năng lực” trong kỳ đánh giá toàn diện hàng năm. Luật sư công có tổng điểm đánh giá hiệu quả công tác pháp lý từ 85 điểm trở lên sẽ được xét chọn là Luật sư công xuất sắc (20).

Ngoài ra, đánh giá Đạo đức Nghề nghiệp Luật sư nói chung, Luật sư công nói riêng mang tính định tính. Thông qua phản hồi từ cấp trên trực tiếp, đồng nghiệp trong cơ quan và cả các đối tượng bên ngoài có tương tác (như đối tác ký kết hợp đồng, đại diện tòa án trong các vụ tranh tụng). Tiêu chí này đánh giá sự chính trực, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ và tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp của Luật sư công.

Các chế tài đối với Luật sư công Trong khuôn khổ hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, các chế tài đối với luật sư công (Luật sư công chức, Luật sư doanh nghiệp), đều phải tuân thủ các quy định trong Quy chế quản lý Luật sư công và Luật sư doanh nghiệp năm 2018 do Bộ Tư pháp ban hành. Trong đó quy định các chế tài đối với đối với Luật sư công được quy định tại Điều 10 về việc thu hồi chứng chỉ trong các trường hợp như tự nguyện xin thôi việc, mất tư cách Luật sư công như bị kỷ luật, không vượt qua đánh giá Luật sư công hàng năm, hay Luật sư công bị cơ quan, doanh nghiệp chấm dứt hợp đồng.

Đối với các hành vi vi phạm liên quan đến đạo đức, quy tắc ứng xử hành nghề như: Vi phạm các nghĩa vụ tuân thủ bí mật nghề nghiệp, thực hiện dịch vụ pháp lý trái quy định, không tuân thủ tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng, các hình phạt tăng dần từ cảnh cáo đến đình chỉ hành nghề (12 tháng), hay thu hồi chứng chỉ hành nghề Luật sư công theo quy định tại Điều 16 đến Điều 20. Các biện pháp này cũng liên đới đến Luật Luật sư 1996 (đã sửa đổi 2017), Hiệp hội Luật sư có thể áp dụng hình thức kỷ luật đối với Luật sư công bởi Luật sư công cũng là Luật sư, chịu sự điều chỉnh của Luật Luật sư (21). Luật công chức 2005 cũng điều chỉnh các hoạt động của Luật sư công, trường hợp Luật sư công vi phạm pháp luật có thể chịu các chế tài như cảnh cáo, khiển trách, cách chức, thậm chí là sa thải đối với Luật sư công.

Khi phát hiện các vi phạm của Luật sư công qua báo cáo nội bộ, hoặc các khiếu nại từ các bên liên quan cho rằng Luật sư công vi phạm pháp luật, đạo đức nghề nghiệp, hay vi phạm công vụ tùy theo mức độ cơ quan nơi Luật sư công đang công tác phối hợp Sở Tư pháp, Hiệp hội Luật sư để giải quyết. Hình thức xử lý kỷ luật cảnh cáo, hủy hợp đồng, thu hồi chứng chỉ hành nghề, nếu có vi phạm nghiêm trọng sẽ bị khởi tố vụ án hình sự. Sau khi xử lý kỷ luật, các công tác giải quyết sẽ được gửi kết quả đến các bên liên quan như Hiệp hội Luật sư, Bộ Tư pháp, đơn vị có hợp đồng lao động với Luật sư công, ngoài ra cập nhật hồ sơ cá nhân đánh giá “uy tín nghề nghiệp” Luật sư công.

Những gợi mở về chế định Luật sư công Việt Nam Cải cách Luật sư công tại Trung Quốc kể từ năm 2016, dưới sự chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, đã tạo ra một khuôn mẫu có tính hệ thống và hiệu quả cao cho các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những nước có hệ thống chính trị - pháp lý tương đồng như Việt Nam, trong việc chính thức hóa và tích hợp sâu rộng đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp vào bộ máy hành chính công.

Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam nhằm mục đích thể chế hóa Luật sư công tại Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW của Bộ Chính trị đã chỉ đạo nghiên cứu và xây dựng chế định Luật sư công như một phần của cải cách dịch vụ pháp lý công, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Quan điểm gợi mở dưới đây tập trung vào các yếu tố: khái niệm về Luật sư công, tiêu chuẩn bổ nhiệm, cơ chế giám sát và đánh giá, chế tài đối với Luật sư công đảm bảo tính khả thi và phù hợp văn hóa xã hội Việt Nam.

Thứ nhất, về khái niệm Luật sư công

Có thể xây dựng khái niệm Luật sư công tại Việt Nam như sau: Luật sư công được xác định là cán bộ, công chức, viên chức và được cơ quan có thẩm quyền cấp chứng chỉ Luật sư công để thực hiện việc đại diện bảo vệ quyền lợi của cơ quan, doanh nghiệp nhà nước thông qua hoạt động tư vấn pháp luật và tham gia tố tụng (22).

Từ khái niệm trên có thể rút ra các nhiệm vụ của luật sư công: (i) đại diện cho cơ quan nhà nước, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị Trung ương và địa phương tham gia tố tụng, giải quyết các vụ kiện, tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh thương mại, hành chính, đất đai; (ii) tư vấn giải quyết tranh chấp quốc tế và tham gia tranh tụng tại cơ quan tài phán quốc tế để bảo vệ lợi ích của nhà nước; (iii) Thực hiện tư vấn pháp luật cho cơ quan nhà nước, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở Trung ương trong các dự án kinh tế - xã hội, các dự án ODA, dự án kinh tế, xã hội khác theo yêu cầu của Trung ương và địa phương; giải quyết khiếu nại, tố cáo kéo dài, tư vấn cho cơ quan nhà nước trong xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật; (iv) Thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng pháp lý nội bộ, nâng cao năng lực, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp và chuyên nghiệp vụ hàng năm,

Luật sư công sẽ tư vấn, rà soát các quy định, giải quyết tranh chấp của các cơ quan Nhà nước, duy trì sự lãnh đạo của Đảng và các nguyên tắc hiến định, phù hợp với tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW, định vị Luật sư công chỉ phục vụ cho cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước để giảm thiểu rủi ro pháp lý, có vai trò cố vấn và giải quyết các tranh chấp đối với các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước. Luật sư công không hoạt động thương mại mà tập trung bảo vệ lợi ích công cộng, tham gia xây dựng chính sách hành chính để tránh sai sót dẫn đến khiếu nại hoặc vô hiệu hóa quyết định.

Thứ hai, về tiêu chuẩn bổ nhiệm Luật sư công

Luật sư công nước ta cần được xây dựng theo nguyên tắc công khai, công bằng và đảm bảo năng lực. Đây là các tiêu chí phản ánh quy trình trọng dụng người tài, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi thực hiện công vụ, bao gồm:

Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Có chứng chỉ đào tạo Luật sư hoặc tương đương; Có ít nhất 02 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật liên quan; cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; Có phẩm chất đạo đức, chính trị vững vàng;Được cơ quan, đơn vị đề xuất tuyển dụng, kí hợp đồng. Quy trình bổ nhiệm do cơ quan chủ quản, đơn vị nộp hồ sơ cho Bộ Tư pháp hoặc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố để thẩm định và cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư công thời hạn 03 năm, có thể gia hạn dựa trên đánh giá chỉ số hiệu quả công việc (KPI) hàng năm về Luật sư công, việc đánh giá KPI này nhằm nâng cao chất lượng tư vấn pháp luật nội bộ, giảm tỉ lệ sai sót hành chính, cũng như trong các quyết định của Luật sư công.

Thứ ba, các cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả Luật sư công

Cơ chế giám sát và đánh giá luật sư công tại Việt Nam có thể áp dụng mô hình “giám sát kép”, đánh giá 3 bên của mô hình Luật sư công Trung Quốc. Cụ thể về đạo đức ứng xử nghề nghiệp Luật sư công do Đoàn Luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam giám sát, để giám sát được hiệu quả, trong thời gian tới Luật Luật sư cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định 1 chương riêng về chế định Luật sư công để đảm bảo hành lang pháp lý để Luật sư công thực hiện trên thực tiễn.

Cơ quan chủ quản nơi Luật sư công làm việc giám sát trực tiếp, thực hiện báo cáo định kì theo quý, theo năm đối với các công việc Luật sư công đã thực hiện, làm cơ sở để khen thưởng, kỷ luật đối với hoạt động của Luật sư công.

Các cơ quan Tư pháp (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Tư pháp tại xã, phường) thực hiện giám sát về chuyên môn, nghiệp vụ đối với Luật sư công.

Về đánh giá 3 bên, gồm có cơ quan, đơn vị tuyển dụng Luật sư công; Đoàn Luật sư tại các tỉnh thành, Liên đoàn Luật sư; Cơ quan Tư pháp tại địa phương, Bộ Tư pháp. Đánh giá hiệu quả hoạt động Luật sư công hàng năm dựa trên KPI cụ thể và đo lường được, bao gồm: số lượng văn bản pháp lý thẩm định/soạn thảo (đánh giá chất lượng qua tỷ lệ chấp thuận); số lượng và kết quả vụ việc tranh tụng (xét giá trị đạt được, tỷ lệ tòa chấp nhận/bác bỏ, cấp sơ thẩm/phúc thẩm, nguyên nhân bất lợi và thành công); rủi ro pháp lý phát hiện/ngăn chặn trong hợp đồng kinh tế (đo lường qua số vụ tránh được kiện tụng); số lỗi trong quyết định hành chính, nghị định/thông tư được phát hiện qua thẩm định (giúp tránh khiếu nại/vô hiệu hóa); và số buổi hướng dẫn/tập huấn pháp lý nội bộ (đánh giá qua phản hồi và tác động). Báo cáo công việc hàng năm phải nêu chi tiết khối lượng, kết quả tư vấn và tuân thủ các quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp Luật sư, tích hợp các đánh giá về công chức theo quy định pháp luật. Ngoài ra, so với Trung Quốc, nơi đánh giá kết hợp chỉ số hiệu suất với hệ thống công chức thì nước ta nên ưu tiên tích hợp công nghệ số trong đánh giá hiệu suất của Luật sư công theo chiến lược chuyển đổi số giai đoạn 2025 - 2030 để đảm bảo minh bạch, công bằng theo tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW.

Thứ tư, các chế tài đối với Luật sư công

Luật sư công khác Luật sư tư nhân ở chỗ, ngoài tuân thủ Luật Luật sư, các quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp, Luật sư công phải tuân thủ các quy định về cán bộ, công chức, viên chức, các đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức nói chung, đây chính là cơ chế “giám sát kép”, đánh giá đa chiều đối với Luật sư công. Để tránh chồng chéo trong các chế tài xử phạt các vi phạm, cần phân cấp các hình thức xử phạt đối với Luật sư công như khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc cần kết hợp với các quy tắc ứng xử nghề nghiệp Luật sư, để một hành vi chỉ bị xử phạt một lần. Mục đích của các chế tài để phòng ngừa các hành vi vi phạm , song song với xử phạt đồng thời có cơ chế khen thưởng đối với Luật sư công có thành tích xuất sắc trong hoạt động pháp luật.

Có thể nhận thấy, khi được tổ chức một cách bài bản, minh bạch, với cơ chế tuyển chọn khắt khe, phạm vi hoạt động rõ ràng, hệ thống giám sát - đánh giá hiệu quả và quản lý chuyên môn độc lập, luật sư công sẽ trở thành một lực lượng nòng cốt, không thể thiếu. Họ không chỉ là người bảo vệ pháp chế, kiểm soát quyền lực hành chính từ bên trong mà còn góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị quốc gia, giảm thiểu rủi ro pháp lý và xung đột, từ đó củng cố niềm tin của người dân vào nền pháp quyền.

Tổng quan về mô hình luật sư công tại Trung Quốc có thể nhận thấy luật sư công tại Trung Quốc duy trì cơ chế bổ nhiệm hành chính chặt chẽ, nhưng cũng nhấn mạnh tính độc lập chuyên môn của luật sư công. Mô hình của Trung Quốc yêu cầu luật sư công chỉ phục vụ trong khuôn khổ nhà nước hoặc những đối tượng đặc thù theo quy định pháp luật, không hành nghề thương mại hoặc đại diện khu vực tư nhân ngoài nhiệm vụ công.

Việt Nam ta đang triển khai mô hình Luật sư công, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn toàn có thể tiếp thu có chọn lọc những bài học quý giá này để xây dựng đội ngũ Luật sư công thực sự vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.

***

Chú thích

(1)公共法律服务体系建设背景下律师制度改革方向和路径研, (2025), https://www.scfzbs.com/llqy/202506/83063567.html, truy cập ngày 02/9/2025.

(2) 公共法律服务体系建设背景下律师制度改革方向和路径研, tài liệu đã dẫn.

(3,4) Lawyers Law of the People's Republic of China (2017 Amendment), https://www.lawinfochina.com/Display.aspx?LookType=3&Lib=law&Cgid=301393&Id=23923&SearchKeyword=national%252520security&SearchCKeyword=&paycode=, truy cập ngày 02/9/2025

(5) 公共法律服务体系建设背景下律师制度改革方向和路径研, tài liệu đã dẫn

(6, 7, 8) 姚尚贤:公职律师制度的本土构建之路, (2017) https://cacpl.chinalaw.org.cn/portal/article/index/id/4945/cid/19.html truy cập ngày 02/09/2025

(9, 10) 司法部关于印发《公职律师管理办法》《公司律师管理办法》的通知, (2018) https://www.moj.gov.cn/pub/sfbgwapp/zwgk/tzggApp/202105/t20210517_395646.html, truy cập ngày 02/09/2025.

(11) 司法部就公职律师公司律师《管理办法》答记者问, (2019)

http://www.scio.gov.cn/xwfb/bwxwfb/gbwfbh/sfb/202207/t20220715_211382.html

(12) 律师法修改重点问题探析, (2025),

https://www.chinalaw.org.cn/portal/article/index/id/35123/cid/28.htmltruy cập ngày 02/09/2025

(13) 共中央办公厅、国务院办公厅印发《关于推行法律顾问制度和公职律师公司律师制度的意见》, https://www.gov.cn/zhengce/2016-06/16/content_5082884.htm truy cập ngày 02/09/2025

(14, 15) 司法部关于印发《公职律师管理办法》《公司律师管理办法》的通知, tài liệu đã dẫn

(16) 司法部关于印发《公职律师管理办法》《公司律师管理办法》的通知, tài liệu đã dẫn

(17) 论中国兼职律师制度存废问题 - 以司法公正和法学教育为中心,

(18) Civil Servant Law of the People's Republic of China, https://www.lawinfochina.com/display.aspx?id=4123&lib=law, truy cập ngày 02/09/2025

(19) Company Law of the People's Republic of China, https://www.lawinfochina.com/Display.aspx?ID=641&lib=law, truy cập ngày 02/09/2025

(20)上海市城市管理行政执法局文件, 沪城管执〔2023〕42 号, https://cgzf.sh.gov.cn/cmsres/3d/3d464c6b6f9c4adcadf59908f6a0a08d/316c44c1168e30a2ce07faa7f8eaba72.pdf truy cập ngày 02/09/2025

(21) Lawyers Law of the People's Republic of China (2017 Amendment), https://www.lawinfochina.com/Display.aspx?Lib=law&id=23923 truy cập ngày 02/09/2025

(22) Tài liệu Hội thảo Đề án “Nghiên cứu xây dựng chế định luật sư công trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” - Bộ Tư pháp, https://fdvn.vn/wp-content/uploads/2025/06/luu-ban-nhap-tu-dong-8-15.pdf, truy cập ngày 02/09/2025.

***

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. 国务院办公厅关于完善国家法律顾问制度和公职律师公司律师制度的意见, Ý kiến của Văn phòng Tổng hợp Quốc vụ viện về việc hoàn thiện hệ thống luật sư quốc gia và hệ thống luật sư công và luật sư doanh nghiệp, https://www.gov.cn/zhengce/2016-06/16/content_5082884.htm, truy cập ngày 02/09/2025. 2. 中共中央办公厅、国务院办公厅印发《关于推行法律顾问制度和公职律师公司律师制度的意见》Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Văn phòng Quốc vụ viện đã ban hành “Ý kiến về việc thúc đẩy chế độ tư vấn pháp luật và chế độ luật sư công và luật sư doanh nghiệp” https://www.gov.cn/zhengce/2016-06/16/content_5082884.htm , truy cập ngày 02/09/2025. 3. 部关于印发《公职律师管理办法》《公司律师管理办法》的通知, Thông báo của Bộ Tư pháp về việc ban hành “Quy chế quản lý luật sư công” và “Quy chế quản lý luật sư doanh nghiệp”, số 131 năm 2018, https://www.beijing.gov.cn/zhengce/zhengcefagui/qtwj/201908/t20190816_781336.html truy cập ngày 30/7/20254. 公共法律服务体系建设背景下律师制度改革方向和路径研, Nghiên cứu phương hướng và lộ trình cải cách hệ thống luật sư trong bối cảnh xây dựng hệ thống dịch vụ pháp lý công, (2025), https://www.scfzbs.com/llqy/202506/83063567.html, truy cập ngày 02/9/2025.5. Lawyers Law of the People's Republic of China (2017 Amendment), Luật Luật sư của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Sửa đổi năm 2017), https://www.lawinfochina.com/Display.aspx?LookType=3&Lib=law&Cgid=301393&Id=23923&SearchKeyword=national%252520security&SearchCKeyword=&paycode=, truy cập ngày 02/9/20256. 姚尚贤:公职律师制度的本土构建之路, Diêu Thượng Hiền: Xây dựng hệ thống luật sư công ở địa phương, (2017), https://cacpl.chinalaw.org.cn/portal/article/index/id/4945/cid/19.html truy cập ngày 02/09/20257. 司法部关于印发《公职律师管理办法》《公司律师管理办法》的通知, Thông báo “Quy chế quản lý luật sư công” và “Quy chế quản lý luật sư doanh nghiệp”, (2018) https://www.moj.gov.cn/pub/sfbgwapp/zwgk/tzggApp/202105/t20210517_395646.html, truy cập ngày 02/09/2025. 8. 司法部就公职律师公司律师《管理办法》答记者问, Bộ Tư pháp trả lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến “Quy chế hành chính” đối với Luật sư công và Luật sư doanh nghiệp. (2019), http://www.scio.gov.cn/xwfb/bwxwfb/gbwfbh/sfb/202207/t20220715_211382.html, truy cập ngày 02/09/20259. 律师法修改重点问题探析, Phân tích những vấn đề trọng tâm trong việc sửa đổi Luật Luật sư,(2025), https://www.chinalaw.org.cn/portal/article/index/id/35123/cid/28.htmltruy cập ngày 02/09/202510. 论中国兼职律师制度存废问题 - 以司法公正和法学教育为中心, Về vấn đề có nên bãi bỏ chế độ luật sư bán thời gian ở Trung Quốc hay không - Tập trung vào công lý tư pháp và giáo dục pháp luật, https://dms.donga.ac.kr/bbs/lawlab/2258/48162/download.do, truy cập ngày 02/09/202511. Civil Servant Law of the People's Republic of China, Luật công chức của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, https://www.lawinfochina.com/display.aspx?id=4123&lib=law, truy cập ngày 02/09/202512. Company Law of the People's Republic of China, Luật Doanh nghiệp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, https://www.lawinfochina.com/Display.aspx?ID=641&lib=law, truy cập ngày 02/09/202513. 上海市城市管理行政执法局文件, 沪城管执〔2023〕42 号, Văn bản của Cục Quản lý và Thực thi Pháp luật thành phố Thượng Hải, Thi hành quản lý đô thị Thượng Hải [2023] Số 42, https://cgzf.sh.gov.cn/cmsres/3d/3d464c6b6f9c4adcadf59908f6a0a08d/316c44c1168e30a2ce07faa7f8eaba72.pdf , truy cập ngày 02/09/202514. Lawyers Law of the People's Republic of China (2017 Amendment), Luật Luật sư của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Sửa đổi năm 2017), https://www.lawinfochina.com/Display.aspx?Lib=law&id=23923 , truy cập ngày 02/09/2025. 15. Tài liệu Hội thảo Đề án “Nghiên cứu xây dựng chế định luật sư công trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” - Bộ Tư pháp, https://fdvn.vn/wp-content/uploads/2025/06/luu-ban-nhap-tu-dong-8-15.pdf, truy cập ngày 02/09/2025.

Luật sư Bùi Bảo Ngọc

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/phap-luat-4-phuong-che-dinh-luat-su-cong-trung-quoc-va-nhung-goi-mo-doi-voi-luat-su-cong-viet-nam.html