Phát triển nông nghiệp gắn với du lịch: Một 'mũi tên' trúng nhiều đích

Ở những vùng núi cao, biên giới, nông nghiệp từ lâu đã là kế sinh nhai chủ yếu của bà con các dân tộc thiểu số, nhưng chỉ dựa vào cây ngô, củ sắn hay chăn nuôi nhỏ lẻ thì rất khó thoát khỏi nghèo khó. Những năm gần đây, tư duy 'làm nông kết hợp làm du lịch' đã mở ra một hướng đi mới cho nông dân vùng cao. Khi nông sản bản địa trở thành đặc sản phục vụ du khách, những thửa ruộng bậc thang, vườn chè cổ thụ, hay những nương cam trĩu quả được đưa vào hành trình trải nghiệm, thì vùng núi cao bỗng trở thành điểm đến vừa thân thuộc, vừa mới lạ, hấp dẫn đối với du khách. Đó không chỉ là sự đổi thay trong cách làm ăn, mà còn là hướng đi bền vững để giữ gìn bản sắc, nâng cao thu nhập và góp phần bảo vệ biên cương từ gốc.

Các chợ phiên của đồng bào các dân tộc vùng cao biên giới phía Bắc đã trở thành “sản phẩm du lịch” được du khách trong và ngoài nước tìm đến. Ảnh: Thanh Tùng

Các chợ phiên của đồng bào các dân tộc vùng cao biên giới phía Bắc đã trở thành “sản phẩm du lịch” được du khách trong và ngoài nước tìm đến. Ảnh: Thanh Tùng

Khi bà con nông dân làm du lịch

Trên các tuyến biên giới phía Bắc, hình ảnh những người nông dân giờ đây không chỉ gắn liền với chiếc cày, con trâu, mà còn gắn liền với dịch vụ homestay, trải nghiệm nông sản và văn hóa bản địa. Ở Bắc Hà, tỉnh Lào Cai, cốm Tày, rượu ngô men lá, hay những buổi chợ phiên đã trở thành “sản phẩm du lịch” được du khách trong và ngoài nước tìm đến. Bà con không chỉ bán nông sản, mà còn “trưng bày” cả không gian sống, cách gieo trồng, cách chế biến, những thứ tưởng chừng chỉ quen thuộc trong cuộc sống thường ngày. Ở Mộc Châu, tỉnh Sơn La, những đồi chè bát ngát nay trở thành phông nền cho du khách chụp ảnh, tìm hiểu quy trình làm chè, thưởng thức trà sạch tại chỗ. Nông dân vừa thu hoạch, vừa làm hướng dẫn viên, kể câu chuyện về cây chè và về vùng đất. Những tour trải nghiệm “một ngày làm nông dân” giúp du khách được cấy lúa trên ruộng bậc thang, hái mận đầu mùa, tự tay chế biến món ăn từ nông sản bản địa. Đây chính là cách mà nông nghiệp truyền thống khoác lên mình chiếc áo mới, chiếc áo của ngành du lịch.

Điểm đáng chú ý là khi làm du lịch gắn với nông sản, bà con có thể bán giá trị gia tăng thay vì bán sản phẩm thô. Một cân thóc bán ra chợ chỉ được vài chục nghìn đồng, nhưng nếu biến thành cốm phục vụ du khách, giá trị có thể gấp đôi, gấp ba. Một quả cam, quả mận hái tại vườn, thưởng thức trong không khí núi rừng, thường được trả giá cao hơn nhiều so với khi đưa xuống chợ đầu mối. Chính vì thế, sự tham gia trực tiếp của nông dân vào chuỗi du lịch nông nghiệp đã tạo ra động lực mới, góp phần thay đổi tư duy sản xuất, đưa kinh tế miền núi, biên giới tiến gần hơn với thị trường rộng lớn.

Phát triển nông nghiệp xanh phục vụ du lịch

Khi nông nghiệp trở thành một phần của du lịch, yếu tố xanh - sạch - bền vững trở thành yêu cầu tất yếu. Du khách không chỉ tìm đến miền núi để nghỉ ngơi, mà còn để trải nghiệm sự tinh khiết của thiên nhiên, của thực phẩm và môi trường sống. Điều này buộc bà con phải chuyển đổi phương thức sản xuất theo hướng hữu cơ, an toàn, hạn chế hóa chất, gắn với bảo vệ hệ sinh thái.

Mô hình homestay miệt vườn ở miền Tây thu hút khách du lịch đến tham quan, trải nghiệm. Ảnh: Thanh Tùng

Mô hình homestay miệt vườn ở miền Tây thu hút khách du lịch đến tham quan, trải nghiệm. Ảnh: Thanh Tùng

Nhiều mô hình ở các tỉnh biên giới như Lào Cai, Tuyên Quang, Điện Biên, Gia Lai, Lâm Đồng, An Giang, Đồng Tháp đã chứng minh rằng, nông nghiệp xanh không chỉ là xu thế, mà còn là “chìa khóa” để nâng cao giá trị du lịch. Những vườn rau hữu cơ, những ao cá nước lạnh, những nương chè trồng theo quy trình sạch đã trở thành điểm nhấn để thu hút khách. Người dân vừa bán sản phẩm nông nghiệp, vừa cho khách hàng sự yên tâm về chất lượng và trải nghiệm thiên nhiên nguyên sơ. Phát triển nông nghiệp xanh phục vụ du lịch còn đồng nghĩa với việc giữ gìn cảnh quan, môi trường, những giá trị cốt lõi của du lịch miền núi. Những thửa ruộng bậc thang ở Hoàng Su Phì, Tuyên Quang, những vườn đào, vườn mận ở Sơn La, những cánh đồng ngập nước ở đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu... đều chỉ thực sự đẹp khi được canh tác bền vững, hài hòa với tự nhiên. Nếu sản xuất ồ ạt, khai thác kiệt quệ, cảnh quan sẽ xuống cấp, du khách sẽ quay lưng. Bởi vậy, phát triển du lịch nông nghiệp ở miền núi biên giới không thể tách rời nhiệm vụ bảo vệ môi trường, giữ rừng, giữ đất, bảo tồn nguồn nước.

Một lợi ích khác của nông nghiệp xanh là nâng tầm thương hiệu địa phương. Khi du khách tin tưởng và giới thiệu rộng rãi, sản phẩm nông nghiệp không chỉ tiêu thụ tại chỗ, mà còn có thể mở đường ra thị trường trong và ngoài nước. Nhiều đặc sản miền núi như hạt dổi, mật ong, chè shan tuyết, thảo quả... đã có mặt tại các siêu thị lớn, một phần nhờ được quảng bá qua các tour du lịch sinh thái nông nghiệp. Đây là sự cộng hưởng giữa kinh tế nông nghiệp và kinh tế du lịch, góp phần đưa miền núi biên giới hội nhập sâu rộng hơn với thị trường.

Đồng hành cùng nông dân làm du lịch

Dẫu có nhiều tiềm năng, nhưng để nông dân miền núi, biên giới thực sự phát huy lợi thế, phát triển du lịch nông nghiệp bền vững, cần sự đồng hành của cả hệ thống chính trị. Điều đầu tiên là cần có quy hoạch và đầu tư hạ tầng. Muốn du khách đến, cần có đường đi thuận lợi, bãi đỗ xe, điện, nước, sóng viễn thông ổn định. Nhiều nơi bà con có sản phẩm tốt, cảnh quan đẹp, nhưng thiếu đường giao thông, thiếu dịch vụ hỗ trợ nên khách khó tiếp cận. Vì vậy, hạ tầng phải được xem là nền tảng đầu tiên để kết nối nông nghiệp với du lịch.

Tiếp đến, cần tăng cường công tác đào tạo, tập huấn cho nông dân. Người nông dân có thể giỏi trồng trọt, chăn nuôi, nhưng khi trở thành người làm du lịch thì phải biết đón tiếp, giao tiếp, kể chuyện về sản phẩm, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và có kiến thức cơ bản về quản lý dịch vụ. Các lớp tập huấn ngắn hạn, các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp du lịch cộng đồng chính là “chiếc cầu” để bà con bước sang lĩnh vực mới. Mặt khác, phải chú trọng liên kết chuỗi giá trị. Không thể để mỗi hộ nông dân làm du lịch một cách đơn lẻ, manh mún. Cần có sự hợp tác theo mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác, hoặc sự tham gia của doanh nghiệp dẫn dắt. Khi đó, sản phẩm nông nghiệp mới được chế biến, đóng gói, quảng bá và phân phối rộng rãi. Doanh nghiệp du lịch có thể kết nối tour tuyến, đưa khách đến tận bản làng; còn nông dân cung cấp trải nghiệm, sản phẩm. Sự liên kết này giúp tăng sức cạnh tranh, đồng thời bảo đảm lợi ích hài hòa cho tất cả các bên.

Bên cạnh đó, cần có chính sách tín dụng ưu đãi và hỗ trợ quảng bá. Muốn làm du lịch nông nghiệp, bà con phải đầu tư cải tạo nhà cửa, xây dựng homestay, mua sắm thiết bị chế biến. Nếu chỉ dựa vào vốn tự có, nhiều hộ sẽ không kham nổi. Vì vậy, các gói vay vốn ưu đãi, các chương trình khuyến khích khởi nghiệp du lịch cần được triển khai mạnh mẽ. Mặt khác, việc quảng bá thông tin qua mạng xã hội, qua các sự kiện văn hóa, du lịch cũng rất quan trọng, để sản phẩm nông nghiệp miền núi tiếp cận đông đảo du khách. Cuối cùng, phải gắn phát triển du lịch nông nghiệp với nhiệm vụ bảo vệ an ninh biên giới. Khi bà con có sinh kế ổn định, có nguồn thu nhập từ chính mảnh đất quê hương, họ sẽ gắn bó với đất, với rừng, với cột mốc biên cương. Những bản làng du lịch cộng đồng ở vùng biên không chỉ mang lại giá trị kinh tế, mà còn tạo thành “phên giậu lòng dân” vững chắc, góp phần giữ gìn chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia.

Thanh Tùng

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/phat-trien-nong-nghiep-gan-voi-du-lich-mot-mui-ten-trung-nhieu-dich-post494551.html