Quả ngọt' từ rừng ngập mặn - Kỳ 2: Lợi ích kép

Nhờ những nỗ lực của các ban ngành, địa phương và những cá nhân yêu mến, tâm huyết với đầm phá nên vùng đầm phá Quảng Lợi (nay thuộc xã Đan Điền) và vùng rú Chá đã trồng thành công và giữ được những dải rừng ngập mặn (RNM) xanh tốt.

Từ một vùng quê ven phá yên ả, thôn Ngư Mỹ Thạnh, xã Đan Điền (sáp nhập từ các xã Quảng Thái, Quảng Lợi, Quảng Vinh, Quảng Phú) bỗng trở nên sôi động từ các hoạt động khai thác thủy sản, dịch vụ du lịch trên đầm phá Tam Giang. Đến với Ngư Mỹ Thạnh, du khách, người dân được trải nghiệm các hoạt động, dịch vụ tour, tuyến “Một ngày trên phá Tam Giang”, “2 ngày, 1 đêm”, tham quan làng Bích Họa, trải nghiệm các nghề truyền thống, chèo thuyền sup quanh RNM, thưởng thức các món ăn đặc sản dân dã của người dân bản địa.

Chị Lường Thị Hiền, chủ một cơ sở dịch vụ du lịch ở Ngư Mỹ Thạnh chia sẻ, du lịch ở làng quê nổi tiếng có chợ nổi trên đầm phá Tam Giang này đã hình thành từ lâu, nhưng ban đầu mang tính tự phát, thiếu bài bản, thiếu các dịch vụ giải trí… nên chưa thu hút, hấp dẫn du khách. Từ khi những cánh RNM hình thành cũng là lúc điểm du lịch sinh thái Ngư Mỹ Thạnh thu hút du khách đến tham quan, trải nghiệm, khám phá nhiều hơn. Từ đó, nhiều dịch vụ giải trí, ăn uống cũng được hình thành để phục vụ du khách ngày càng đông. Nhiều ngư dân kết hợp làm du lịch, dịch vụ mang lại nguồn thu nhập mỗi ngày vài trăm ngàn đến cả triệu đồng, nhờ đó, họ có cuộc sống ổn định hơn.

Các đai rừng trồng phân tán trong các ao nuôi trồng thủy sản, giữa các ao nuôi thường có lạch thủy đạo trở thành các rãnh RNM phục vụ du lịch sinh thái trên vùng đầm phá Tam Giang. Có người bảo, một thời phá Tam Giang rất đẹp nhưng “đồng không mông quạnh”, du khách muốn đi trên phá, song thiếu sức hấp dẫn, không có chỗ để hóng mát, đạp trìa, nấu ăn… Giờ đây, các tổ chức, cá nhân khai thác du lịch đã tổ chức các tour thuyền sup chèo giữa các đai rừng ngập mặn và nhiều hoạt động trải nghiệm, giải trí, ăn uống quanh khu vực RNM đã giúp khu vực này trở nên sôi động hơn và tạo thêm điểm đến cho du khách.

Ông Phan Văn Ty, Trưởng thôn Ngư Mỹ Thạnh, xã Đan Điền thông tin, từ khi có RNM, nguồn lợi thủy sản trên đầm phá sinh sôi, phục hồi. Một lượng rất lớn rạm tự nhiên sinh trưởng trong RNM, tạo nguồn sinh kế ổn định và bền vững cho ngư dân. Người dân Ngư Mỹ Thạnh mỗi đêm đi bắt rạm có thể thu được 7-8kg, mỗi kg hiện nay có giá khoảng 70 ngàn đồng, đem lại thu nhập bình quân 500 ngàn đồng mỗi đêm.

Một lượng tép rất lớn cũng xuất hiện quanh khu vực RNM. Theo phân tích của các chuyên gia, tép là loài sinh vật nhỏ ăn các loài vi sinh vật và các loài phù du; xác bả thực vật ở trong RNM rất nhiều là môi trường lý tưởng cho loài tép sinh sôi. Ông Ty xởi lởi: “Hằng đêm, người dân chỉ cần giăng vài tay lưới, thả vài cái nò, sáng ra đổ cũng kiếm được 200-300 ngàn đồng từ tép”.

Ở làng Ngư Mỹ Thạnh có hơn 300 hộ dân đánh bắt thủy sản bằng thuyền máy công suất nhỏ. Mỗi ngày, mỗi hộ có nguồn thu 200-300 ngàn đồng từ khai thác tép, cộng thêm khai thác rạm có thể thu nhập 700 ngàn đồng. Đây là nguồn lợi rất lớn, bền vững vì các loài này sinh sôi rất nhanh trong các khu RNM. Các loài thủy sản có giá trị kinh tế như cá nâu, dìa, lệt khoai, lệt huyết… cũng phục hồi rất nhanh nhờ vào RNM. Từ đó, góp phần khôi phục, tái tạo nguồn lợi thủy sản cho vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Bên cạnh đó, do RNM có hệ thống rễ dày đặc nên các đối tượng đánh bắt bằng xung điện không thể vào để đánh bắt thủy sản.

RNM còn có chức năng tạo bãi đẻ, các loài thủy sản sẽ vào trú ngụ, sinh sôi. Sinh thái RNM này được chứng minh có năng lượng, tích lũy carbon nhiều nhất trong tất cả các loại rừng. Trong các khu RNM tuy chỉ một vài loài cây nhưng tính đa dạng sinh học rất lớn, vì ở dưới RNM còn có một tầng lớp thủy sinh như loài cỏ biển, các loài cây ngập mặn ở tầng thấp như cây mốt và nhiều loài cây khác.

Lá cây RNM khi rơi xuống còn tạo ra một chuỗi thức ăn và hình thành các loài vi sinh vật ăn xác bã hữu cơ. Từ các chuỗi thức ăn này như các loài động vật thủy sản nhỏ gồm tép, vi sinh vật, hay phù du trở thành nguồn thức ăn rất tốt cho các loài thủy sản. RNM cũng là nơi sinh sôi cho nhiều loài thủy sản, thậm chí có những loài tưởng chừng như biến mất trên phá Tam Giang vì cạn kiệt thức ăn như cá mú, cá dìa, cá nâu, tôm rảo, tôm đất… thì nay cũng đã phục hồi trở lại. Tại thời điểm này, khi ra vùng phá Tam Giang khu vực Ngư Mỹ Thạnh sẽ thấy trên rễ, thân cây bần chua xuất hiện rất nhiều con rạm đến trú ngụ, sinh sôi.

Trên các vùng nước ngọt, các sông Như Ý, Ô Lâu, Cửa Lác rất nhiều bèo hoa dâu, mùa lũ về mang theo một lượng lớn bèo này tràn về phá Tam Giang. Người dân khi canh tác phải tốn nhiều chi phí thuê nhân công, máy móc xử bèo trên đồng ruộng. Nhờ đai RNM này, những năm gần đây bèo không tấp vào đồng ruộng và khu dân cư như một thời từng tràn vào đồng ruộng dày cả mét sau mỗi trận lũ.

Giờ đây, đai RNM đã tạo nên một sinh cảnh cho nuôi trồng thủy sản, nhất là một số loài cây trồng trên các bờ ao nuôi thủy sản. Các loài cây này không chỉ phát huy chức năng phòng hộ, bảo vệ bờ ao không bị sạt lở do sự tác động của sóng, gió, giúp người dân không phải tốn kém chi phí duy tu, sửa chữa sau những mùa mưa bão, mà còn góp phần điều hòa khí hậu trong ao nuôi. Vì phần lớn ao nuôi hạ triều là ao đất, nước trong ao không quá sâu nên vào mùa nắng nóng, nhất là mưa dông thì tôm, cá trong ao bị bệnh, chết do nước nóng lên và các cặn bã ở tầng đáy tích lũy nhiều năm tạo thành khí độc làm nguồn nước bị thiếu ô-xy.

Khi trồng RNM trên các bờ ao sẽ giúp điều hòa nhiệt độ trong ao nuôi. Bên cạnh đó, các rễ cây ngập mặn còn giúp chuyển hóa các chất cặn bã ở trong ao nuôi, làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Nếu tất cả các diện tích hơn 2.750ha ao hồ nuôi thủy sản hạ triều được trồng RNM sẽ góp phần bảo vệ ao nuôi, tạo nên hệ thống đai RNM phân tán và phát triển nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch sinh thái rất hiệu quả và bền vững.

Thực tế cho thấy, RNM có lợi ích kép, nhất là về chức năng phòng hộ. RNM như một “bức tường bê tông xanh” bao quanh bảo vệ các vùng ven bờ phá, bờ sông, bờ biển, chắn sóng gió bảo vệ hạ tầng làng mạc và đất canh tác của người dân. Nhiều kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, nếu trồng đai rừng rộng 50 mét phía ngoài bờ phá Tam Giang thì vào mùa mưa lũ, bão lớn, phía sau đai rừng vẫn bình yên. Chính những cây rừng này sẽ cản sóng theo hướng không đối kháng, nó còn chia lực và phân tán sóng làm cho sóng yếu dần, khi sóng đi qua đai rừng 50m, lúc này sóng sẽ tiêu năng lượng và bằng không. Còn đai rừng 100m khi gặp sóng cao 2 mét thì năng lượng sóng cũng bằng không. Cứ đến mùa mưa bão, đến các đai RNM phá Tam Giang, cách bờ đông phá chừng 15-20 mét sẽ thấy là nơi neo đậu của các thuyền, đò ở trong thủy đạo với mật độ dày đặc, thuyền được buộc vào các cây bần chua và được bảo vệ an toàn.

Trước vai trò, tầm quan trọng của RNM trong phát triển kinh tế, xã hội và ứng phó với biến đổi khí hậu, thành phố Huế đã có chủ trương đầu tư dự án mở rộng RNM trên đầm phá lên trên 200ha. Diện tích được mở rộng chủ yếu ở khu vực rú Chá kéo dài đến khu vực cầu Tam Giang . Ngoài cây chá đang được nghiên cứu, nhân giống, ngành lâm nghiệp sẽ đưa các loài dừa nước, đước đôi, bần chua… vào trồng mở rộng RNM ở khu vực phường Hương Phong cũ . Khi diện tích này được mở rộng thì rú Chá sẽ là RNM ven phá chỉ có duy nhất ở Huế và trở thành khu RNM tập trung lớn nhất vùng duyên hải miền Trung.

Theo ông Lê Ngọc Tuấn, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm thành phố và các chuyên gia, rú Chá được mở rộng thành RNM rộng lớn không chỉ tạo điều kiện cho người dân các địa phương phát triển du lịch sinh thái, khai thác và bảo vệ, phục hồi nguồn lợi thủy sản, mà còn là điều kiện bảo vệ môi trường sinh thái, khu dân cư và vùng sản xuất trước thiên tai, biến đổi khí hậu đang diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường.

Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/e-magazine/qua-ngot-tu-rung-ngap-man-ky-2-loi-ich-kep-156208.html