Qua thời dựa vào tài nguyên, ĐBSCL tính lại mô hình tăng trưởng nông nghiệp

Động lực tăng trưởng của ngành nông nghiệp chưa có sự 'bứt phá' trong suốt nhiều năm qua. Đâu là nguyên nhân, và vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp của cả nước là Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cần làm gì để có bước chuyển mạnh mẽ hơn?

Cục Thống kê của Bộ Tài chính mới đây đã có báo cáo kinh tế 9 tháng đầu năm 2025 với mức tăng trưởng 7,85% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó khu vực nông, lâm và thủy sản đạt mức tăng trưởng 3,83% - đóng góp 5,36% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.

Phát triển nông nghiệp dựa vào khai thác tài nguyên, tận dụng lợi thế không thể tạo đột phá mới. Ảnh: Trung Chánh

Phát triển nông nghiệp dựa vào khai thác tài nguyên, tận dụng lợi thế không thể tạo đột phá mới. Ảnh: Trung Chánh

Khai thác tài nguyên để tăng trưởng: động lực đã cạn?

Từ con số tăng trưởng chưa đến 4% trong chín tháng đầu năm nay, nhìn lại cả giai đoạn 2021-2024, khu vực nông, lâm, thủy sản cả nước cũng chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân khoảng 3,26%, cho thấy mức tăng khiêm tốn và thiếu đột phá.

Trước khi tìm hiểu nguyên nhân, có một điều phải nhìn nhận là thời gian gần đây, ngành nông nghiệp đã có bước chuyển trong cách tiếp cận, như với cây lúa đã chuyển hướng sang xác định vùng nguyên liệu, sản xuất sản phẩm chất lượng cao, thân thiện môi trường thông qua đề án 1 triệu héc ta ở ĐBSCL.

Thế nhưng, qua số liệu thống kê cũng như đối chiếu thực tế, lĩnh vực nông nghiệp vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng, tức có tư duy và cách tiếp cận mới nhưng kết quả vẫn thấp, hay nói cách khác cần phải chuyển đổi mạnh mẽ hơn nữa.

Vậy đâu là nguyên nhân khiến lĩnh vực nông nghiệp tăng trưởng thấp?

Trao đổi với KTSG Online, TS Trần Hữu Hiệp, Chuyên gia kinh tế, cho biết một phần nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng lĩnh vực nông nghiệp thời gian qua thấp vì phần lớn là dựa vào mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ, tức chủ yếu phát triển về lượng, trong khi xuất khẩu lại là sản phẩm thô.

Câu chuyện đê bao ngăn lũ mở rộng diện tích lúa vụ 3 ở ĐBSCL từ năm 2011 trở về sau là một điển hình cơ bản nhất của chính sách phát triển dựa vào mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ ở ngành nông nghiệp.

Thực trạng nêu trên cho thấy mô hình tăng trưởng trong một giai đoạn vừa qua chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, tận dụng lợi thế. Thế nhưng, chiều sâu gia tăng giá trị là rất ít khi sản phẩm cũng chỉ bán thô hoặc chỉ qua sơ chế cơ bản là chính.

Ngoài nguyên nhân nêu trên, theo TS Hiệp, có những nguyên nhân khác khiến tăng trưởng ngành nông nghiệp thấp, bao gồm thứ nhất, hiệu quả và năng suất thấp, khả năng cạnh tranh kém, trong khi năng suất lao động lĩnh vực này tăng khá chậm; công nghệ được ứng dụng còn khiêm tốn dù có tiến bộ; đầu tư cho chế biến sâu, kết nối chuỗi giá trị chưa đạt yêu cầu.

Thứ hai, đó là cơ sở hạ tầng, logistics, kết nối thị trường và chế biến chưa đồng bộ; và cuối cùng là rủi ro thiên tai, biến đổi khí hậu, đất đai, nguồn lực và môi trường cạnh tranh của Đồng bằng cũng hạn chế.

TS Vũ Thành Tự Anh, Chuyên gia kinh tế, Giảng viên cao cấp Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright, trong một sự kiện được tổ chức gần đây khi nói về tốc độ phát triển của nông nghiệp ĐBSCL, cho rằng quy mô sản xuất manh mún cũng chính là nguyên nhân, dù trong quy hoạch đã nói đến triển khai các vùng nguyên liệu, các trung tâm đầu mối… “Giải quyết tính manh mún này sẽ góp phần thúc đẩy năng suất của Đồng bằng,” ông nói.

Theo ông Tự Anh, cơ chế thỏa thuận giữa nông dân và doanh nghiệp đến thời điểm hiện tại vẫn còn yếu. “Khi không có cơ chế thực thi thì chuyện “bẻ kèo” xảy ra thường xuyên, hoặc là từ phía doanh nghiệp hoặc là từ phía nông dân và tạo ra vô số tổn hại về mặt kinh tế trong xã hội,” ông cho biết.

Dĩ nhiên, để một quốc gia phát triển, yếu tố then chốt rõ ràng là phải dựa vào công nghiệp và dịch vụ hay nói cách khác, những nước có tỷ trọng nông nghiệp cao thường là nước đang phát triển hoặc phát triển kém.

Tuy nhiên, với thực trạng nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, nhất là ở khu vực ĐBSCL (nông nghiệp chiếm khoảng 28% trong cơ cấu kinh tế năm 2024), rõ ràng một mặt phải tìm cách giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế (một số chuyên gia gợi ý giảm xuống còn khoảng 10-12%), mặt khác phải tìm động lực tăng trưởng mới cho chính lĩnh vực nông nghiệp của ĐBSCL nói riêng và Việt Nam nói chung.

Cần một mô hình mới để nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng. Ảnh: Trung Chánh

Cần một mô hình mới để nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng. Ảnh: Trung Chánh

Mô hình mới nào cho nông nghiệp?

Như đã nêu, mô hình tăng trưởng hiện tại đối với lĩnh vực nông nghiệp đã không tạo ra được những đột phá mới. Thậm chí, mô hình tăng trưởng hiện nay đã, đang và sẽ đối mặt với không ít thách thức, gồm khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, đất đai bạc màu và cả những thách thức nội tại lẫn bên ngoài khác như: sạt lở, thiếu nước... Do đó, tìm kiếm và chuyển đổi sang mô hình mới là điều cần thiết phải làm.

Rõ ràng, việc thay đổi để chuyển sang mô hình mới cũng đã được nhận diện, trong đó, nghị quyết 13 năm 2022 (nghị quyết số 13-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045) của Trung ương đề ra mục tiêu phát triển ĐBSCL đến 2030, thì cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh sang hướng công nghiệp và dịch vụ, giảm nhanh tỷ trọng nông nghiệp. “Giảm nông nghiệp ở đây phải được hiểu là giảm tỷ trọng trong cơ cấu, nhưng phải tăng mạnh về giá trị sản phẩm nông nghiệp chế biến, công nghệ cao…”, ông Hiệp cho biết.

Theo ông Hiệp, động lực tăng GDP cho quốc gia dựa trên ba chân kiềng, gồm đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng, thì nông nghiệp cũng không nằm ngoài, tức muốn nông nghiệp tăng trưởng thì đầu tiên phải tăng đầu tư, hai là xuất khẩu và ba là tiêu dùng. “Ba chân kiềng này cần được chuyển hóa thành động lực cụ thể,” ông nhấn mạnh.

Như vậy định hướng sắp tới là gì?

Trả lời câu hỏi nêu trên của KTSG Online, theo ông Hiệp, có hai vấn đề cần ưu tiên, trong đó đầu tiên phải dịch chuyển sản xuất sang kinh tế nông nghiệp công nghệ cao, chế biến sâu và nông nghiệp xanh.

Thứ hai, trong quy hoạch tích hợp vùng ĐBSCL (quyết định 278/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050), xác định rõ việc phải xây dựng một trung tâm đầu mối tổng hợp ở thành phố Cần Thơ gắn với dịch vụ logistics để giữ vai trò là trung tâm logistics vùng và 7 trung tâm đầu mối có chức năng thu gom, phân loại, chế biến nông sản ở các địa phương (trước khi sáp nhập gồm ở An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng, Tiền Giang và Bến Tre).

Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại vẫn chưa làm được, và tương lai cũng chưa biết ra sao khi điều chỉnh quy hoạch vùng sau sáp nhập các địa phương, liệu “số phận” các trung tâm này có được giữ? “Cần xác định được định hướng, muốn phát triển nông nghiệp phải gắn với chế biến sâu, giá trị cao và quy hoạch tích hợp đã xác định rõ,” ông Hiệp nhấn mạnh.

Rõ ràng, vấn đề nêu trên cần phải nhanh chóng được giải quyết và có hướng ưu tiên, trong đó đầu tiên là tổ chức lại sản xuất và cấu trúc lại chuỗi giá trị; thứ hai, đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thứ ba, phát triển hạ tầng, tài chính và thị trường. “Dĩ nhiên, sẽ có những nhóm vấn đề khác nữa, nhưng ba nhóm này cần được ưu tiên,” ông Hiệp nói.

Về giải ngân đầu tư công trong lĩnh vực nông nghiệp, theo ông Tự Anh, dù ĐBSCL chiếm vai trò quan trọng về nông nghiệp, nhưng tỷ lệ đầu tư công của ĐBSCL được phân bổ từ Trung ương chỉ chiếm 19,3%, trong khi vùng đóng góp đa số về lúa gạo, tôm cá, trái cây (vùng có trên 24 triệu tấn lúa mỗi năm chiếm hơn 55% tổng sản lượng lúa cả nước và xuất khẩu chiếm trên 90%; trái cây khoảng 3,4 triệu tấn, chiếm 60% và thủy sản gần 4,8 tiệu, chiếm 55-56% của cả nước).

“Điều này thấy gì?”, ông Tự Anh nêu câu hỏi và cho biết cần phải phân bổ một cách công bằng hơn về đầu tư công cho ĐBSCL. “Phân bổ hiện nay về đầu tư công cho ĐBSCL là không công bằng và vì vậy cần phải được điều chỉnh trong các niên khóa và trong các kế hoạch đầu tư trung hạn và dài hạn khác,” ông nhấn mạnh.

Ông Tự Anh cũng yêu cầu phải tăng quyền chủ động cho các địa phương, bởi thực tế trong các phân bổ đầu tư công cho nông, lâm, thủy sản của ĐBSCL, thì tỷ lệ các địa phương trong vùng được kiểm soát hay tự quản lý chưa đến ¼.

Rõ ràng, cần “mở khóa”, tạo động lực mới để lĩnh vực nông nghiệp ĐBSCL phát triển, dĩ nhiên quá trình này cần phải có sự bổ trợ rất lớn từ công nghiệp chế biến để thúc đẩy.

Lĩnh vực nông nghiệp của ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung đang đứng trước tình trạng tăng trưởng chậm lại không phải là kết thúc tăng trưởng, mà là dấu hiệu cho thấy cần tìm một mô hình mới nhằm tạo động lực để tăng trưởng cho một giai đoạn tiếp theo...

Trung Chánh

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/qua-thoi-dua-vao-tai-nguyen-dbscl-tinh-lai-mo-hinh-tang-truong-nong-nghiep/