Quan điểm về tình bạn của các triết gia

Nếu dịch thoáng, từ philia trong tiếng Hy Lạp cổ nghĩa là tình bạn và Aristotle cho rằng đó là một trong những niềm vui thuần khiết của cuộc sống. Ông tin rằng philia có nhiều dạng khác nhau: Vì lợi ích (mối quan hệ kinh doanh), vì niềm vui (tình yêu lãng mạn) và vì đức hạnh (sự hòa hợp giữa hai tâm hồn).

Các triết gia ở Athens đã dành rất nhiều thời gian tụ tập với bạn bè của họ, vì vậy cũng thật hợp lý khi họ có thể viết rất sâu sắc về những mối quan hệ đó. Cuộc đối thoại của Plato về tình bạn, Lysis, mở đầu bằng cảnh Socrates thong thả đi dạo giữa Học viện và Lyceum, rồi được mời tham gia cùng một nhóm thanh niên đang đứng trò chuyện bên ngoài một trường đấu vật, nơi họ thích tụ tập.

Nhóm thanh niên nói với Socrates: “Rất nhiều người trong chúng tôi dành thời gian ở đây... thảo luận về mọi thứ và chúng tôi sẽ rất vui nếu có ông cùng tham gia,” các thanh niên nói với Socrates. Socrates đồng ý, dường như đơn giản là cảm thấy thích thú. Pakaluk viết: “Triết học, như cách [Socrates] đã thực hành, thường là sự thể hiện tình bạn thuộc một loại nào đó. Mặt khác, trong khi “đam mê” bạn bè của mình, Socrates lại khiến người đọc thấy bối rối không biết rốt cuộc thì thế nào là bạn bè.

Aristotle có một tầm nhìn rõ ràng hơn, một tầm nhìn gần nhất với những gì chúng ta biết là đúng về tình bạn ngày nay. Suy nghĩ của ông về chủ đề này sâu sắc đến mức nó đã ảnh hưởng đến gần như mọi lý thuyết về tình bạn sau đó.

Nếu dịch thoáng, từ philia trong tiếng Hy Lạp cổ nghĩa là tình bạn và Aristotle cho rằng đó là một trong những niềm vui thuần khiết của cuộc sống. Ông tin rằng philia có nhiều dạng khác nhau: Vì lợi ích (mối quan hệ kinh doanh), vì niềm vui (tình yêu lãng mạn) và vì đức hạnh (sự hòa hợp giữa hai tâm hồn).

Ông cũng cho rằng tình bạn, theo một nghĩa bao quát, cần thiết cho tất cả mọi người - dù giàu hay nghèo, trẻ hay già, nam hay nữ, hay thậm chí cả động vật (một quan điểm phải đến hàng nghìn năm sau mới được nhắc lại). Ông ấy nhận ra rằng tình bạn đòi hỏi cảm giác tích cực, sự có đi có lại, thời gian và sự quen thuộc.

Ông viết: “Tục ngữ có câu, [con người] không thể hiểu nhau cho đến khi họ chia sẻ ngọt sẻ bùi, và họ không thể chấp nhận nhau hoặc trở thành bạn bè cho đến khi mỗi người tỏ ra đáng yêu trong mắt người kia và giành được sự tin tưởng của đối phương... Bởi vì mặc dù mong ước có được tình bạn đến nhanh chóng, nhưng bản thân tình bạn thì không.” Nhưng ý tưởng gây tranh cãi nhất của ông chính là “mỗi người bạn là một bản ngã khác của tôi”. Hàng nghìn năm sau, khoa học thần kinh và di truyền học sẽ cho thấy nhận định ấy còn chứa đựng nhiều điều sâu xa hơn những gì Aristotle có thể biết vào thời điểm đó.

 Mỗi triết gia có một quan niệm độc đáo về tình bạn. Ảnh: The Conversation.

Mỗi triết gia có một quan niệm độc đáo về tình bạn. Ảnh: The Conversation.

Vào thế kỷ XVIII, triết gia người Scotland Adam Smith - người sáng lập ra kinh tế học hiện đại, tác giả cuốn Sự giàu có của các quốc gia, đã có một nhận thức sâu sắc mà sau này sẽ được chứng minh là rất chính xác. Ông là một trong những người đầu tiên nhận ra sự đồng cảm, thứ mà ông gọi là “cảm giác đồng điệu” trong cuốn sách Lý thuyết về tình cảm đạo đức xuất bản năm 1759.

Ông xem cảm xúc đó - khi một người cảm nhận được nỗi đau hay niềm vui của người khác như chính mình, là nền tảng của đạo đức. Lạc quan hơn, ông còn hình dung ra một thế hệ chính trị dựa trên tình bạn cá nhân, nơi con người kết nối với nhau để xây dựng một xã hội vừa đạo đức, vừa hợp lý về mặt kinh tế. Phải nói thẳng là điều đó đã không xảy ra.

Khi ngành tâm lý học ra đời vào cuối thế kỷ XIX, nhà tiên phong vĩ đại William James đã phỏng đoán rằng phải có nền tảng sinh học cho các quá trình tâm lý. Và ông đã tinh tế nhận ra rằng sự kết nối xã hội không phải lúc nào cũng được nuôi dưỡng đúng mức: “Con người được sinh ra trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà điều tuyệt vời nhất là tình bạn và những mối thân tình. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn nhớ đến họ nữa. Thế nhưng, họ lại để tình bạn và những mối thân tình đó chẳng được chăm sóc, cứ để nó lớn lên ven đường như dã thảo, mong đợi chúng sẽ ‘giữ được’ chỉ nhờ sức ì.”

Cùng thời với ông, người đặt nền móng cho phần lớn những hiểu biết hiện đại về vai trò của bối cảnh xã hội là nhà xã hội học người Pháp Émile Durkheim. Ông nhận ra rằng mọi người đều tham gia vào các nhóm xã hội, và những nhóm đó có thể ảnh hưởng đáng kể đến hạnh phúc. Ông cũng nhấn mạnh mối nguy hiểm của sự mất kết nối xã hội, mà ông gọi là “vô quy chuẩn” (anomie).

Trong cuốn sách đột phá về việc tự tử năm 1897 của mình, ông đã chỉ ra rằng những người có nhiều mối quan hệ xã hội hơn sẽ ít có khả năng tự tử hơn, đồng thời chỉ ra rằng quyền tự quyết của cá nhân không phải là yếu tố duy nhất tác động. Điều đó khiến ông trở thành một trong những người đầu tiên kết nối rõ ràng tình bạn với sức khỏe tâm thần.

Tuy nhiên, các trường phái thống trị về tư tưởng tâm lý, phân tâm học và chủ nghĩa hành vi vẫn tiếp tục phớt lờ mối quan hệ tình bạn. Sigmund Freud nhìn nhận mọi mối quan hệ chủ yếu thông qua lăng kính tình dục, trong đến mức các nhà nghiên cứu hành vi lại cực đoan khi chỉ chú trọng vào những gì họ có thể quan sát và đo lường được. Cả hai xu hướng này đều góp phần làm mờ giá trị của sự trừu mến đơn giản giữa con người với nhau.

Lydia Denworth/Bách Việt Books-NXB Lao Động

Nguồn Znews: https://znews.vn/quan-diem-ve-tinh-ban-cua-cac-triet-gia-post1611709.html