Quản trị doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế do tư duy lãnh đạo
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho hay, có thể thẳng thắn nhìn nhận rằng hiện nay, nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thực sự áp dụng đầy đủ các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế do quy định của pháp luật tư duy lãnh đạo.
Đại biểu Dương Tấn Quân (Bà Rịa - Vũng Tàu) cho biết, Nghị quyết số 12 của Trung ương đã chỉ ra rõ những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước trong vai trò lực lượng nòng cốt, dẫn dắt nền kinh tế. Cụ thể, cơ chế quản trị doanh nghiệp nhà nước còn chậm đổi mới, hiệu quả thấp, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; tính công khai, minh bạch còn hạn chế. Đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp nhằm đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, trong những năm qua, doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều thay đổi tích cực, năng lực quản trị, điều hành được cải thiện đáng kể và từng bước tiệm cận thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực quốc tế vẫn chưa được áp dụng một cách đầy đủ và triệt để. Nguyên nhân đến từ nhiều phía: từ hệ thống pháp luật, nhận thức và tư duy lãnh đạo, cho đến việc chuyển đổi từ mô hình quản lý truyền thống sang tư duy kinh doanh hiện đại, hiệu quả.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng.
Theo Bộ trưởng, những hạn chế trong quản trị là một trong các nguyên nhân chính khiến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa như kỳ vọng. Do đó, Bộ Tài chính đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi Luật số 69. Việc sửa luật lần này nhằm tháo gỡ những rào cản pháp lý, tạo điều kiện để doanh nghiệp nhà nước có thể "cởi trói", vươn lên mạnh mẽ và tiệm cận các chuẩn mực quản trị quốc tế.
Về phía nhà nước, hành lang pháp lý đang dần được hoàn thiện. Tuy nhiên, Bộ trưởng nhấn mạnh, điều quan trọng trước hết là doanh nghiệp cần có sự thống nhất trong nhận thức. Quản trị doanh nghiệp nhà nước không chỉ là điều hành nội bộ, mà là một hệ thống cơ chế, thể chế điều chỉnh mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các bên liên quan như chủ sở hữu, cổ đông, nhà đầu tư, người lao động, khách hàng, nhà cung cấp và cộng đồng xã hội.
Thứ hai, cần nâng cao trách nhiệm, tính chuyên nghiệp, năng động và hiệu quả trong thực hiện chức năng của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Thứ ba, phải tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, chủ tịch công ty tại doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, đẩy mạnh công khai, minh bạch thông tin; mở rộng hợp tác quốc tế; tận dụng thành tựu khoa học công nghệ và đổi mới phương thức quản trị, nhất là trong chuyển đổi số. Gắn với đó là đổi mới công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, bảo đảm đủ năng lực để tiếp cận, áp dụng hiệu quả các thông lệ và kỹ năng quản trị hiện đại.