Bắc Giang: Cần nâng cao nhận thức và xóa bỏ định kiến giới thông qua tuyên truyền đa dạng

Dù kinh tế Bắc Giang liên tục tăng trưởng, phụ nữ dân tộc thiểu số và miền núi vẫn là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi. Từ sinh kế bấp bênh, định kiến văn hóa ăn sâu, đến lỗ hổng trong chính sách- những rào cản đang khiến tiếng nói và vai trò của họ bị lu mờ.

 Thành viên CLB Dân vũ phụ nữ DTTS xã Hồng Kỳ (Yên Thế, Bắc Giang) trao đổi kinh nghiệm xây dựng gia đình hạnh phúc. Ảnh: Ngọc Anh

Thành viên CLB Dân vũ phụ nữ DTTS xã Hồng Kỳ (Yên Thế, Bắc Giang) trao đổi kinh nghiệm xây dựng gia đình hạnh phúc. Ảnh: Ngọc Anh

Không thể phủ nhận những nỗ lực đáng ghi nhận trong việc nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN). Dưới sự quan tâm của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và vai trò nòng cốt của Hội LHPN các cấp, phụ nữ dân tộc thiểu số đã có những bước tiến quan trọng.

Báo cáo tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc gia với chủ đề "Đảm bảo tiếng nói và sự tham gia của phụ nữ dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) vào hoạt động phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hiện nay, chị Lê Thị Hoàn- Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Bắc Giang cho biết, về kinh tế, phụ nữ DTTS&MN ngày càng chủ động hơn trong sản xuất.

Chị Lê Thị Hoàn báo cáo tham luận tại Hội thảo quốc gia về sự tham gia của phụ nữ DTTS&MN vào hoạt động phát triển kinh tế- xã hội

Chị Lê Thị Hoàn báo cáo tham luận tại Hội thảo quốc gia về sự tham gia của phụ nữ DTTS&MN vào hoạt động phát triển kinh tế- xã hội

Nhiều chị em đã mạnh dạn ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi sang các loại có giá trị kinh tế cao như vải thiều Lục Ngạn, mỳ Chũ, gà đồi Yên Thế.

Các mô hình chăn nuôi, kinh doanh dịch vụ nhỏ do phụ nữ làm chủ ngày càng phổ biến, góp phần tăng thu nhập, ổn định cuộc sống. Sự tham gia vào các hợp tác xã, tổ hợp tác cũng giúp phụ nữ tiếp cận thị trường và nâng cao hiệu quả sản xuất. Các chương trình tín dụng ưu đãi cùng các lớp tập huấn về kỹ thuật, quản lý tài chính đã hỗ trợ hàng nghìn phụ nữ DTTS&MN vươn lên thoát nghèo.

Tuy nhiên, chị Lê Thị Hoàn cho biết, đằng sau những thành tựu ấy, thực trạng tiếng nói và sự tham gia của phụ nữ DTTS&MN vẫn bị kìm hãm bởi hàng loạt thách thức và rào cản cố hữu.

Đầu tiên là rào cản về kinh tế và sinh kế. Đại đa số phụ nữ DTTS&MN vẫn sống dựa vào nông nghiệp truyền thống manh mún, với năng suất thấp và dễ bị tổn thương bởi thiên tai, biến động thị trường. Các hoạt động phi nông nghiệp còn hạn chế, chủ yếu là lao động giản đơn với thu nhập bấp bênh, khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nghèo đói.

Chị Lục Thị Hương (Sơn Động, Bắc Giang) vươn lên thoát nghèo từ phát triển mô hình kinh tế vườn cây ăn quả. Ảnh: Nguyễn Thắng

Chị Lục Thị Hương (Sơn Động, Bắc Giang) vươn lên thoát nghèo từ phát triển mô hình kinh tế vườn cây ăn quả. Ảnh: Nguyễn Thắng

Khó khăn trong tiếp cận vốn vay lớn do thiếu tài sản thế chấp hoặc thiếu thông tin là một trở ngại lớn. Quyền sở hữu và sử dụng đất của phụ nữ, đặc biệt là những trường hợp ly hôn, góa bụa, còn nhiều bất cập. Việc thiếu thông tin thị trường, kỹ năng tiếp thị cũng khiến sản phẩm làm ra khó tiêu thụ ổn định. Thêm vào đó, gánh nặng lao động kép – vừa là lao động chính trong sản xuất, vừa đảm đương toàn bộ công việc gia đình không được trả công – đã bào mòn sức khỏe, thời gian và cơ hội học tập, nghỉ ngơi của họ.

Thứ hai là rào cản về xã hội và văn hóa. Định kiến giới sâu sắc và phong tục tập quán lạc hậu vẫn là vật cản vô hình. Tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn phổ biến, khiến nam giới được ưu tiên trong giáo dục, thừa kế tài sản và vị trí xã hội. Phụ nữ bị mặc định ở vai trò nội trợ, "hậu phương", từ đó hạn chế sự tự tin và cơ hội tham gia xã hội, chính trị.

Tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết vẫn còn diễn ra ở một số vùng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, giáo dục và tương lai của phụ nữ và thế hệ mai sau. Nhiều phụ nữ DTTS&MN còn hạn chế trong giao tiếp tiếng phổ thông, ít có cơ hội giao lưu, tiếp cận thông tin bên ngoài. Trình độ học vấn thấp là nguyên nhân gốc rễ, cản trở họ tiếp cận việc làm tốt, thông tin và tham gia các diễn đàn xã hội một cách hiệu quả.

Hạn chế trong tiếp cận công nghệ thông tin cũng là một thiệt thòi lớn trong kỷ nguyên số. Đáng lo ngại hơn, các vấn đề xã hội như buôn bán phụ nữ và trẻ em, bạo lực gia đình vẫn còn diễn biến phức tạp, đe dọa trực tiếp đến an toàn và khả năng tham gia của phụ nữ.

Thứ ba là rào cản về thể chế và chính sách. Mặc dù có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhưng việc triển khai ở cấp cơ sở đôi khi chưa thực sự hiệu quả, còn mang tính hình thức. Quá trình tham vấn ý kiến của phụ nữ DTTS&MN trong xây dựng chính sách còn chưa sâu sát, dẫn đến các chính sách chưa thực sự phù hợp với nhu cầu và đặc thù của họ. Tình trạng thiếu cán bộ nữ dân tộc thiểu số có năng lực ở các cấp cũng ảnh hưởng đến việc đại diện và bảo vệ quyền lợi cho cộng đồng.

Cuối cùng, hạ tầng yếu kém và tác động của biến đổi khí hậu càng làm trầm trọng thêm những khó khăn. Nhiều vùng còn thiếu thốn về đường sá, điện, nước sạch, internet, cản trở phát triển kinh tế và tiếp cận dịch vụ xã hội. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như lũ lụt, sạt lở đất trực tiếp ảnh hưởng đến sinh kế và cuộc sống của họ.

Cần hệ thống giải pháp đồng bộ

Để giải quyết tận gốc vấn đề, theo chị Lê Thị Hoàn, Bắc Giang cần triển khai một hệ thống giải pháp đồng bộ, toàn diện và bền vững. Điều cốt lõi là nâng cao nhận thức và xóa bỏ định kiến giới thông qua tuyên truyền đa dạng, phù hợp với văn hóa bản địa và phát huy vai trò của nam giới, người có uy tín trong cộng đồng.

Song song đó, việc nâng cao năng lực và trao quyền cho phụ nữ là vô cùng cấp thiết, bao gồm phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, tạo cơ hội học nghề gắn với nhu cầu thực tiễn và phát triển các kỹ năng mềm. Hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững thông qua đa dạng hóa kênh tín dụng, chuyển giao khoa học kỹ thuật, hỗ trợ kết nối thị trường và phát triển các mô hình sinh kế bền vững là những giải pháp then chốt.

Việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động xã hội và chính trị đòi hỏi tạo môi trường thuận lợi trong gia đình và cộng đồng, nâng cao năng lực và vai trò của Hội Phụ nữ, đồng thời có chính sách ưu tiên, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ dân tộc thiểu số để họ tự tin đảm nhận các trọng trách. Cuối cùng, việc hoàn thiện chính sách và thể chế, nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, tăng cường phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực, cùng với đầu tư đồng bộ vào hạ tầng kinh tế – xã hội là những tiền đề vững chắc để các giải pháp trên phát huy hiệu quả.

N.Minh

Nguồn Phụ Nữ VN: https://phunuvietnam.vn/bac-giang-can-nang-cao-nhan-thuc-va-xoa-bo-dinh-kien-gioi-thong-qua-tuyen-truyen-da-dang-20250619215216583.htm