Quốc hội bàn 'nóng' về quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm do AI tạo ra

Đại biểu Quốc hội đề nghị ghi nhận quyền sở hữu trí tuệ đối với các tác phẩm do AI tạo ra và áp dụng mô hình bảo vệ có điều kiện.

Ngày 24/11, Quốc hội thảo luận về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ. Nhiều đại biểu quan tâm đến nội dung quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm do Trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra. Bởi đây là vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau trong cộng đồng quốc tế.

ĐỀ NGHỊ GHI NHẬN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VỚI SẢN PHẨM AI

Tham gia thảo luận, ông Phạm Trọng Nghĩa (Đoàn Lạng Sơn) cho rằng, hiện nay có thể chia ra thành 3 nhóm quan điểm. Cụ thể, quan điểm thận trọng không công nhận quyền sở hữu trí tuệ nếu thiếu "yếu tố con người" hay “do con người” tạo ra. Theo đó, "yếu tố tác giả là con người" là điều kiện bắt buộc để xác lập quyền sở hữu trí tuệ. Quan điểm này cho rằng, việc đơn thuần nhập lệnh vào AI từ đó tạo ra tác phẩm không đủ để cấu thành quyền tác giả. Đồng thời, sản phẩm do AI tự động tạo ra không đủ điều kiện để được cấp bằng sáng chế vì AI không thể là "nhà sáng chế".

Thứ hai là quan điểm bảo vệ có điều kiện. Theo đó, bảo hộ sản phẩm có điều kiện khi có sự can thiệp đáng kể của con người. Khi một sản phẩm được tạo ra bởi AI mà có sự can thiệp sáng tạo đáng kể của con người thì cần được bảo hộ và việc bảo hộ chỉ giới hạn ở những phần do con người trực tiếp sáng tạo hoặc chỉnh sửa đáng kể sau khi AI tạo ra.

Thứ ba là quan điểm tự do phát triển. Theo đó, sản phẩm do AI tạo ra được công nhận. Người dùng AI được coi là tác giả mặc định, trừ khi có thỏa thuận khác. Cá biệt, có quan điểm cho rằng khi AI tự tạo ra tác phẩm mà không có sự can thiệp trực tiếp của con người thì AI phải được công nhận là “tác giả điện tử” còn quyền sẽ thuộc về chủ sở hữu AI.

Theo ông Nghĩa, việc không ghi nhận quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm của AI thường được lập luận là quyền sở hữu trí tuệ là công cụ để bảo vệ giá trị sáng tạo của con người, giá trị sáng tạo lao động trí óc của nhân loại; việc công nhận quyền sở hữu trí tuệ cho những sản phẩm được tạo ra bởi máy móc sẽ tạo sự bất công cho những tác giả sử dụng chính trí tuệ của mình để sáng tạo ra những tác phẩm thật sự.

Bên cạnh đó, ý kiến này lo ngại nếu công nhận thì có thể bị AI cạnh tranh mất việc làm. Bởi lẽ, AI có thể tạo ra các tác phẩm chất lượng cao với tốc độ nhanh và chi phí gần như bằng không sẽ khiến các doanh nghiệp không còn cần thuê con người, dẫn đến bị thất nghiệp hoặc giảm giá trị lao động.

Ở chiều ngược lại, việc công nhận sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm do AI tạo ra sẽ góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Nếu sản phẩm do AI tạo ra không được bảo hộ sẽ dẫn đến dễ bị sao chép tràn lan; từ đó, giảm động lực sáng tạo của cá nhân và giảm nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp.

Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc thu hút đầu tư vốn và công nghệ vào AI là rất quan trọng. Bên cạnh đó, để phát huy trí tuệ Việt, cần có cơ sở pháp lý để bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm do AI Việt tạo ra, đây cũng là tiền đề quan trọng để đưa AI Việt ra thế giới, giảm phụ thuộc vào các Tập đoàn công nghệ toàn cầu (Big Tech). Mặt khác, việc xác định chủ thể sở hữu trí tuệ cũng giúp ràng buộc trách nhiệm bồi thường thiệt hại một cách rõ ràng hơn, công bằng hơn và giảm được kiện tụng.

“Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị yêu cầu đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Do đó, đề nghị ghi nhận quyền sở hữu trí tuệ đối với các tác phẩm do AI tạo ra và áp dụng mô hình bảo vệ có điều kiện. Đồng thời, nhấn mạnh nguyên tắc sáng tạo của con người là yếu tố cốt lõi. Xác định rõ AI không phải là chủ thể quyền mà chủ thể quyền là con người, là người cuối cùng sử dụng, vận hành AI, trừ trường hợp có thỏa thuận là người khác”, ông Nghĩa nói và cho rằng cách tiếp cận này không phủ nhận vai trò của AI nhưng vẫn giữ vững yêu cầu về tính nguyên gốc của sản phẩm và sự sáng tạo của con người.

Từ những phân tích đó, ông Nghĩa đề nghị xem xét bổ sung vào Điều 7 Luật hiện hành và các Điều liên quan các nội dung như: Quy định, tác phẩm, sản phẩm do hệ thống trí tuệ nhân tạo tạo ra chỉ được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ khi có sự tham gia sáng tạo đáng kể của con người trong quá trình hình thành, chỉnh sửa hoặc định hướng nội dung. Quy định quyền sở hữu, khai thác và trách nhiệm pháp lý đối với sản phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra thuộc về tổ chức, cá nhân trực tiếp huấn luyện, vận hành tạo ra. Đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết các nội dung nêu trên.

Trên cơ sở đó, theo ông Nghĩa sẽ tiến hành đánh giá, tổng kết để có quy định một mục hoặc một chương riêng liên quan đến AI khi sửa đổi toàn diện Luật Sở hữu trí tuệ, đáp ứng yêu cầu phát triển của khoa học công nghệ. Trường hợp cần thiết, bổ sung quy định tương ứng vào dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo cũng được trình Quốc hội tại Kỳ họp này.

LO NGẠI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TÁC GIẢ CỦA CON NGƯỜI

Đề cập vấn đề quy định về việc cho phép tổ chức, cá nhân sử dụng văn bản và dữ liệu đã được công bố hợp pháp và công chúng được phép tiếp cận nhằm mục đích nghiên cứu, huấn luyện và phát triển hệ thống trí tuệ nhân tạo (AI).

Đại biểu Trần Thị Thu Đông (Đoàn Cà Mau) cho rằng, đây là nội dung trên thế giới hiện nay còn nhiều băn khoăn, tranh cãi. Liên minh châu Âu đã phải tranh luận nhiều năm để đưa ra 2 cơ chế thận trọng về khai thác dữ liệu. Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc đều đang tiếp tục điều chỉnh sau hàng loạt vụ kiện liên quan đến việc AI sử dụng dữ liệu mà không xin phép tác giả.

Tại Việt Nam, cộng đồng văn học nghệ thuật và sáng tạo - những người trực tiếp bị tác động đang hết sức lo ngại, bởi nếu quy định không chặt chẽ, dữ liệu sáng tạo của văn nghệ sĩ có thể bị thu thập tràn lan, sao chép hàng loạt để huấn luyện AI mà họ không hề hay biết; các sản phẩm AI tạo ra từ chính các tác phẩm của họ lại cạnh tranh trở lại với họ trên thị trường; nguy cơ xóa nhòa dấu ấn sáng tạo, nhầm lẫn tác giả, thậm chí làm biến dạng tác phẩm.

Theo đại biểu, dự thảo luật tuy đã nêu các yêu cầu không xâm phạm, không gây thiệt hại song không có tiêu chí xác định thế nào là thiệt hại, không có giới hạn phạm vi dữ liệu, không ràng buộc trách nhiệm minh bạch và cơ chế giám sát.

Từ đó, nữ đại biểu đề nghị ban soạn thảo cân nhắc chưa nên đưa quy định này vào luật, đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, tham khảo sự hoàn thiện của các quốc gia đi trước.

Đồng quan điểm, đại biểu Trần Hồng Nguyên (Đoàn Lâm Đồng) nhấn mạnh: Việc các nhà phát triển AI đàm phán và mua giấy phép sử dụng các sản phẩm có bản quyền cũng giống như việc bất kỳ doanh nghiệp nào phải chi trả cho nguyên liệu đầu vào. Điều này phù hợp với nguyên tắc cốt lõi của pháp luật về sở hữu trí tuệ, đặc biệt là quyền tác giả.

Các chính sách thúc đẩy thị trường cấp phép sử dụng quyền tác giả cho phát triển AI, theo đại biểu cần được cân nhắc để bảo đảm cân bằng quyền lợi của cả hai bên: các nhà phát triển AI vẫn được tiếp cận nội dung có bảo hộ quyền tác giả và chủ thể quyền được bù đắp xứng đáng cho công sức lao động và sáng tạo.

Theo đại biểu, việc đưa ra ngoại lệ để trợ cấp AI sẽ giúp công nghệ AI phát triển nhanh hơn là vấn đề chưa có kiểm chứng, trong khi nhiều nước phát triển cũng đang rất dè dặt trong việc đưa ra ngoại lệ này.

“Nhằm bảo đảm quyền lợi của chủ thể quyền tác giả, tôi kiến nghị chưa nên đưa vào dự thảo luật lần này. Với sự phát triển thần tốc của công nghệ AI, bất cứ sai lầm nào trong chính sách cũng có thể dẫn đến hệ quả khó lường trong thời gian ngắn”, đại biểu Nguyên nhấn mạnh.

Thiên Tuấn

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/quoc-hoi-ban-nong-ve-quyen-so-huu-tri-tue-doi-voi-san-pham-do-ai-tao-ra-post1587647.html