Quy định mới về tài liệu mật và giải mật trong Luật Lưu trữ

Luật Lưu trữ (sửa đổi) nêu rõ 'không thực hiện việc giải mật tài liệu lưu trữ trong trường hợp việc giải mật có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc'.

Với 457/463 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, sáng 21/6, Quốc hội đã thông qua dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi).

Không giải mật tài liệu lưu trữ nếu gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc

Một trong những nội dung đáng chú ý là dự luật quy định điều khoản chuyển tiếp (Điều 65) quy định trong thời hạn 5 năm, cơ quan, tổ chức đã xác định bí mật nhà nước có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với lưu trữ lịch sử thực hiện việc giải mật tài liệu đã nộp vào lưu trữ lịch sử theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.

Việc giải mật tài liệu lưu trữ đã nộp vào lưu trữ lịch sử trong trường hợp cơ quan xác định bí mật nhà nước không còn hoạt động thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và quy định tại khoản 2 Điều 65.

Các đại biểu bấm nút thông qua dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi). Ảnh: QH

Các đại biểu bấm nút thông qua dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi). Ảnh: QH

Theo đó, người đứng đầu cơ quan tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ, UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về lưu trữ quyết định việc giải mật tài liệu lưu trữ trong trường hợp để đáp ứng yêu cầu thực tiễn bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; phát triển kinh tế - xã hội; hội nhập, hợp tác quốc tế.

Người đứng đầu lưu trữ lịch sử thực hiện các hình thức xác định việc giải mật tài liệu lưu trữ trong trường hợp tài liệu không còn thuộc danh mục bí mật nhà nước.

Luật cũng nêu rõ “không thực hiện việc giải mật tài liệu lưu trữ trong trường hợp việc giải mật có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc”.

Về việc hủy tài liệu lưu trữ chứa bí mật nhà nước đã nộp vào lưu trữ lịch sử trước ngày luật này có hiệu lực thi hành thì Bộ trưởng Bộ Nội vụ quyết định hủy tài liệu tại lưu trữ lịch sử của Nhà nước ở Trung ương. Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định hủy tài liệu tại lưu trữ lịch sử của Nhà nước ở cấp tỉnh.

Tài liệu lưu trữ chứa bí mật nhà nước được hủy trong trường hợp khi không cần thiết phải lưu giữ và việc hủy không gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc; nếu không hủy tài liệu sẽ gây nguy hại cho lợi ích quốc gia, dân tộc.

Việc hủy tài liệu lưu trữ chứa bí mật nhà nước phải bảo đảm các yêu cầu theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.

Chuyển đổi số trong phát huy giá trị tài liệu lưu trữ

Trước khi biểu quyết thông qua Luật Lưu trữ (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo.

Ông Tùng cho biết, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định giao bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định cụ thể về tài liệu điện tử cần lưu trữ của ngành, lĩnh vực; bổ sung quy định xác định chủ thể được tiếp cận tài liệu điện tử.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng tài liệu điện tử cũng như tài liệu giấy hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức cần được đánh giá để xác định những tài liệu có giá trị lưu trữ, tài liệu không có giá trị lưu trữ.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng. Ảnh: QH

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng. Ảnh: QH

Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chỉnh lý khoản 6 Điều 15 của dự thảo Luật theo hướng bổ sung nội dung giao người đứng đầu cơ quan, tổ chức quy định cụ thể danh mục hồ sơ, tài liệu lưu trữ của cơ quan, tổ chức (bao gồm tài liệu lưu trữ điện tử).

Về việc tiếp cận tài liệu lưu trữ là tài liệu điện tử, ông Tùng cho hay, dự thảo đã có quy định về tiếp cận thông tin trong tài liệu lưu trữ (Điều 25), quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tiếp cận, sử dụng thông tin trong tài liệu lưu trữ (Điều 26) áp dụng cả đối với tài liệu lưu trữ giấy và tài liệu lưu trữ điện tử.

“Việc xác định chủ thể và thông tin được tiếp cận trong các trường hợp cụ thể được thực hiện theo quy định của pháp luật về tiếp cận thông tin và pháp luật có liên quan, do đó đã bao hàm nội dung đại biểu Quốc hội đề nghị”, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật nói.

Một nội dung đáng chú ý nữa được dự luật quy định tại Điều 46 về 4 hình thức khác phát huy giá trị tài liệu lưu trữ có nêu rõ việc “Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, phát triển các ý tưởng sáng tạo, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong phát huy giá trị tài liệu lưu trữ”.

Điều 58 về trách nhiệm quản lý nhà nước về lưu trữ cũng quy định rõ Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm xây dựng, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn thông tin mạng trong lưu trữ tài liệu điện tử, trừ nội dung quy định tại khoản 6 Điều 36 của Luật.

Đó là trừ những trường hợp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với các bộ có liên quan xây dựng, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn và triển khai giải pháp về bảo mật, xác thực trong hoạt động nghiệp vụ lưu trữ của các cơ quan đảng, nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về cơ yếu, chữ ký số chuyên dùng công vụ.

Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Bộ Nội vụ trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, an toàn thông tin mạng và giao dịch điện tử trong lĩnh vực lưu trữ.

Luật Lưu trữ (sửa đổi) gồm 8 chương, 65 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025.

Thu Hằng

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/quy-dinh-moi-ve-tai-lieu-mat-va-giai-mat-trong-luat-luu-tru-2293805.html