Rất nhiều dự án thành công trong giảm phát thải và triển khai tín chỉ carbon

Từ những sáng kiến mạnh mẽ của PVN trong năng lượng tái tạo, hydro xanh; những nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính của Vingroup; đến mô hình hợp tác công tư điển hình như T&J Green Energy… có thể thấy xu hướng chuyển đổi xanh tại Việt Nam đang bước vào giai đoạn hành động…

Nhà máy điện rác Meguro tại Nhật Bản. Ảnh JFE Engineering.

Nhà máy điện rác Meguro tại Nhật Bản. Ảnh JFE Engineering.

Ngày 22/7/2025, tại Diễn đàn "Thúc đẩy doanh nghiệp tham gia cơ chế tín chỉ chung (JCM) hướng tới sẵn sàng cho thị trường carbon tại Việt Nam” do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Ministry of the Environment (Nhật Bản) tổ chức, nhiều doanh nghiệp đã chia sẻ những kinh nghiệm xây dựng, triển khai dự án tạo tín chỉ carbon.

NHIỀU DOANH NGHIỆP FDI THAM GIA GIẢM PHÁT THẢI

Ông Saito Yasushi, Giám đốc điều hành, Giám đốc kinh doanh Việt Nam, Chủ tịch Công ty Erex, cho biết Công ty TNHH Erex là doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất điện sinh khối tại Nhật Bản.

Với triết lý phát triển năng lượng bền vững dựa trên nguyên tắc S + 3E (An ninh năng lượng – Kinh tế – Môi trường – An toàn). Erex luôn chú trọng cân bằng giữa các yếu tố: đảm bảo an ninh năng lượng, hiệu quả kinh tế, thân thiện môi trường và an toàn xã hội.

Theo ông Saito Yasushi, Erex đang triển khai nhiều dự án điện sinh khối tại Việt Nam, với sự hỗ trợ tích cực từ Chính phủ Nhật Bản thông qua Cơ chế tín chỉ chung (JCM) và các sáng kiến liên quan, cùng sự hợp tác của Chính phủ Việt Nam.

Các tín chỉ carbon được cấp thông qua JCM có thể được sử dụng trong hệ thống giao dịch phát thải khí nhà kính (ETS) của cả Nhật Bản và Việt Nam, góp phần thúc đẩy thị trường carbon và đẩy nhanh quá trình khử carbon tại cả hai quốc gia.

Quanh cảnh Diễn đàn. Ảnh Chu Khôi

Quanh cảnh Diễn đàn. Ảnh Chu Khôi

Ông Long Borareaksmey, Tổng Giám đốc khu vực Asia, Công ty TNHH Green Carbon giới thiệu về dự án tạo tín chỉ carbon thông qua ứng dụng Công nghệ Tưới Khô – Ướt xen kẽ (AWD). Kỹ thuật AWD) đã được chứng minh là giúp giảm phát thải khí mê-tan tới 50% so với phương pháp canh tác ngập nước truyền thống. Đồng thời, AWD còn góp phần tăng năng suất lúa khoảng 5%, giảm chi phí sản xuất nhờ tiết kiệm nước và thuốc bảo vệ thực vật, từ đó gia tăng thu nhập cho nông dân khoảng 150 USD/ha/năm.

"Không chỉ giảm phát thải khí nhà kính, chúng tôi còn giúp bà con cải thiện sinh kế nhờ gia tăng năng suất, giảm chi phí sản xuất và mở rộng cơ hội tiếp cận tín chỉ carbon”.

Ông Long Borareaksmey, Tổng Giám đốc khu vực Asia, Công ty TNHH Green Carbon.

Tại Việt Nam, Green Carbon đã ký kết Biên bản ghi nhớ (MOU) với nhiều viện nghiên cứu nông nghiệp tại các vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Các chương trình hợp tác tập trung vào đo lường phát thải khí mê-tan và nghiên cứu các giải pháp canh tác phù hợp với từng vùng sinh thái.

Đáng chú ý, Green Carbon hiện đang phối hợp với Học viện Nông nghiệp Việt Nam (VNUA) và Viện Di truyền Nông nghiệp (AGI) triển khai dự án lưu trữ carbon trong đất bằng cách trồng xen các giống cây như đậu tương trong giai đoạn đất bỏ hoang.

Tại Diễn đàn, đại diện Tập đoàn JFE Engineering (Nhật Bản) và Công ty CP Môi trường Thuận Thành đã giới thiệu Dự án Nhà máy điện rác T&J Green Energy tại Bắc Ninh, được hỗ trợ bởi Cơ chế Tín chỉ Chung (JCM). Dự án này có công suất phát điện: 11,6 MW; Công suất xử lý rác 500 tấn/ngày (bao gồm rác sinh hoạt và công nghiệp); Giảm phát thải dự kiến: 41.805 tCO₂/năm. JFE Engineering đang xây dựng nhà máy thử nghiệm chuyển đổi rác thành khí tổng hợp, từ đó sản xuất hóa chất như methanol, tích hợp công nghệ thu giữ, sử dụng và lưu trữ carbon.

CHUYỂN DỊCH NĂNG LƯỢNG, ĐÓNG GÓP VÀO GIẢM PHÁT THẢI

Ông Trần Kỳ Anh, Quản lý giao dịch – Phòng Tín chỉ carbon, Tập đoàn Vingroup, chia sẻ những nỗ lực của Vingroup trong việc đẩy mạnh chuyển đổi xanh, hướng đến phát triển thị trường carbon. Bên cạnh việc tiên phong thúc đẩy xu hướng tiêu dùng xanh tại Việt Nam, Vingroup cũng đặt mục tiêu tham gia sâu vào các thị trường tín chỉ carbon trong nước và quốc tế.

Trong giai đoạn 2021–2024, Vingroup đã bàn giao hơn 140.000 ô tô điện và 243.000 xe máy điện ra thị trường Việt Nam. Ước tính, lượng xe điện VinFast đưa vào sử dụng trong năm 2024 sẽ giúp giảm khoảng 5,9 triệu tấn CO₂ trong suốt vòng đời hoạt động.

Trong lĩnh vực giao thông công cộng, hệ thống 302 xe buýt điện VinBus đã được triển khai tại 31 tuyến xe buýt ở Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Nha Trang và Phú Quốc, góp phần cắt giảm 48.000 tấn CO₂ trong năm 2024. Dịch vụ taxi điện Xanh SM cũng ghi nhận mức giảm phát thải khoảng 150.000 tấn CO₂ trong cùng năm.

Vingroup nỗ lực đóng góp vào giảm phát thải.

Vingroup nỗ lực đóng góp vào giảm phát thải.

Trong năm 2024, hệ thống khách sạn và khu nghỉ dưỡng Vinpearl đã sản xuất 16.338 kWh điện từ năng lượng mặt trời. Đồng thời, 56 trung tâm thương mại Vincom Retail đã lắp đặt hệ thống điện mặt trời, giúp giảm 10.000 tấn CO₂ mỗi năm. Dự kiến, ít nhất 4 hệ thống điện mặt trời mới sẽ được lắp đặt trong năm 2025.

Vingroup hiện đang xúc tiến phát triển và đăng ký nhiều dự án tín chỉ carbon theo tiêu chuẩn quốc tế: Dự án trạm sạc V-Green đăng ký theo tiêu chuẩn VCS; Dự án xe máy điện VinFast đăng ký theo tiêu chuẩn GS4GG; Dự án điện mặt trời tại Sơn La dự kiến áp dụng tiêu chuẩn GCC.

"Vingroup đang đẩy mạnh phát triển năng lượng sạch với mục tiêu triển khai 14.000 MW điện năng lượng tái tạo và 4.800 MW điện khí LNG trong giai đoạn 2025–2030. Đến năm 2035, tổng công suất nguồn điện dự kiến đạt 47.100 MW".

Ông Trần Kỳ Anh, Quản lý giao dịch – Phòng Tín chỉ carbon, Tập đoàn Vingroup.

Ngoài ra, còn nhiều dự án tiềm năng khác đang được Vingroup nghiên cứu, như: Các dự án năng lượng tái tạo (VinEnergo); Các dự án đường sắt cao tốc (VinSpeed); Dịch vụ vận tải điện VinBus và taxi Xanh SM… Vingroup cũng bày tỏ mong muốn hợp tác với các đối tác Nhật Bản để phát triển các dự án tín chỉ carbon và tham gia Cơ chế Tín chỉ Chung (JCM) giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Ông Nguyễn Văn Tuấn, Phó trưởng Ban An toàn môi trường và Phát triển bền vững, Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (PVN), cho hay PVN hiện đang sản xuất tới 70% nhu cầu xăng dầu trong nước và là nhà sản xuất điện lớn thứ hai Việt Nam, cung cấp khoảng 9% sản lượng điện toàn quốc. Tuy nhiên, đi kèm với đó là lượng phát thải nhà kính khoảng 33 triệu tấn CO₂ tương đương (năm 2024) – thách thức lớn đặt ra cho chiến lược phát triển bền vững.

Vì vậy, PVN đang ưu tiên tối đa hóa khai thác khí tự nhiên trong nước cho sản xuất điện và phân bón, điển hình là chuỗi dự án Lô B – Ô Môn. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu LNG được đẩy mạnh thông qua các cụm cảng và nhà máy nhiệt điện như Thị Vải – Nhơn Trạch 3, 4.

Một bước tiến đáng chú ý là việc PVN hợp tác với đối tác Đan Mạch triển khai dự án điện gió ngoài khơi đầu tiên tại Nam Trung Bộ, công suất dự kiến 1 GW, thuộc nhóm 17 dự án chiến lược trong khuôn khổ JETP.

Ngoài ra, dự án xuất khẩu điện gió sang Singapore (2,3 GW) cũng đang được phát triển, tận dụng lưới điện qua Malaysia. PVN đang định hướng phát triển năng lượng mới như hydro xanh từ điện gió, kết hợp xây dựng Trung tâm công nghiệp – dịch vụ năng lượng tái tạo tại Vũng Tàu và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng quốc tế về hạ tầng điện gió ngoài khơi (chân đế, trạm biến áp…).

Ông Tuấn nêu lên nhiều dự án điển hình của PVN với mục tiêu giảm phát thải. Như, Dự án hydro xanh thí điểm từ năng lượng mặt trời tại GPP Dinh Cố với sản lượng ước đạt 30–40 tấn H₂/năm; Tổ hợp điện sạch tích năng Lâm Sơn (Khánh Hòa) sản lượng 5,87 tỷ kWh/năm, tổng vốn đầu tư khoảng 3,98 tỷ USD. PVPower đã bán thành công chứng chỉ năng lượng tái tạo (REC) từ các nhà máy thủy điện hiện hữu. PVOil đã lắp đặt 400 trạm sạc điện tại cây xăng; giai đoạn 2025–2030 dự kiến triển khai thêm 1.000 trạm sạc.

Bên cạnh các dự án mới, PVN còn cắt giảm hơn 768.000 tấn CO₂ trong năm 2024 thông qua cải tiến công nghệ và sử dụng năng lượng hiệu quả.

Nêu lên những thách thức trong phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, ông Nguyễn Văn Tuấn cho hay PVN cũng đang đối mặt với nhiều vướng mắc về pháp lý khi tham gia thị trường tín chỉ carbon trong nước và quốc tế: Thiếu quy định cụ thể và đồng bộ về sở hữu, mua bán tín chỉ carbon; Chưa có hướng dẫn kỹ thuật rõ ràng để tính toán lượng hấp thụ và giảm phát thải từ các dự án trồng rừng hay công nghệ; Quá trình theo dõi, đánh giá, chứng nhận lượng CO₂ hấp thụ còn kéo dài và tốn kém; Cơ chế quốc tế (JCM, VCM) còn phức tạp, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi đăng ký và phát triển dự án.

"PVN kiến nghị Chính phủ cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý về thị trường carbon Việt Nam; Đơn giản hóa quy trình cấp tín chỉ carbon quốc tế; Xây dựng cơ chế riêng cho tín chỉ carbon trong nước, phù hợp điều kiện thực tiễn của doanh nghiệp Việt Nam", ông Nguyễn Văn Tuấn đề xuất.

Chu Khôi

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/rat-nhieu-du-an-thanh-cong-trong-giam-phat-thai-va-trien-khai-tin-chi-carbon.htm