Rút ngắn thời gian xét thăng hạng tạo động lực để giảng viên thăng tiến trong công việc

Việc bỏ chức danh 'trợ giảng' không chỉ là thay đổi kỹ thuật mà là bước điều chỉnh mang tính chiến lược, hướng đến một nền giáo dục đại học hiện đại.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự thảo thông tư quy định chuẩn nghề nghiệp giảng viên tại cơ sở giáo dục đại học để lấy ý kiến đóng góp.

Một nội dung đáng chú ý là dự thảo thông tư bỏ chức danh trợ giảng (hạng III, mã số V.07.01.23) thay vì phân hạng như trước đây (giảng viên hạng III, giảng viên chính hạng II, giảng viên cao cấp hạng I), nay sẽ chỉ còn các tên gọi giảng viên, giảng viên chính và giảng viên cao cấp.

Cùng với đó, thời gian giữ chức danh nghề nghiệp đã giảm khoảng 2-3 năm so với quy định trước đây được nhiều lãnh đạo trường đại học đánh giá rằng là điều kiện thuận lợi, giúp giảng viên thuận lợi hơn trong việc xét thăng tiến.

Bỏ chức danh trợ giảng là bước điều chỉnh hợp lý

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Đại Lượng - Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cho biết, dự thảo thông tư bỏ chức danh “trợ giảng” được xem là bước điều chỉnh hợp lý, phù hợp với xu thế nâng cao chất lượng và chuyên nghiệp hóa đội ngũ giảng viên đại học.

“Trước hết, trong bối cảnh giáo dục đại học đang chuyển mạnh sang mô hình đào tạo gắn với nghiên cứu, yêu cầu đối với đội ngũ giảng viên ngày càng cao cả về trình độ học thuật lẫn năng lực sư phạm. Việc duy trì chức danh “trợ giảng” không còn thật sự phù hợp với chuẩn nghề nghiệp giảng viên hiện nay, khi các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu đều đòi hỏi kiến thức chuyên sâu và khả năng tự chủ học thuật.

Thứ hai, trên thực tế, giai đoạn làm trợ giảng không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả đào tạo như mong muốn. Ở nhiều cơ sở, trợ giảng chủ yếu tham gia hỗ trợ kỹ thuật, hành chính hoặc thực hành giảng dạy, trong khi thiếu cơ chế bồi dưỡng, định hướng nghề nghiệp rõ ràng. Điều này dẫn đến tình trạng “chậm trưởng thành” trong chuyên môn, thậm chí kéo dài thời gian phát triển nghề nghiệp của người trẻ.

Bỏ chức danh trợ giảng, thay vào đó là cơ chế tuyển dụng và đào tạo giảng viên trẻ theo hướng chuyên nghiệp sẽ giúp nhà trường chủ động hơn trong việc chuẩn hóa đội ngũ.

Thứ ba, việc thống nhất cơ cấu ba hạng giảng viên gồm giảng viên, giảng viên chính và giảng viên cao cấp không chỉ đơn giản hóa hệ thống ngạch bậc, mà còn tạo điều kiện để các trường xây dựng lộ trình phát triển nghề nghiệp minh bạch, rõ tiêu chí, rõ năng lực. Qua đó, người được tuyển dụng có thể định hướng sớm việc học tập nâng cao trình độ, phấn đấu đạt chuẩn giảng viên ngay từ đầu thay vì dừng lại ở vị trí tạm thời.

Nhìn tổng thể, việc bỏ chức danh trợ giảng không phải là mất đi một vị trí mà là bước tiến trong quá trình chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại học.

Chính sách này nếu được triển khai đồng bộ, đi kèm với cơ chế hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng sẽ góp phần hình thành đội ngũ giảng viên trẻ có năng lực, bản lĩnh và đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Đại Lượng cho hay.

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Đại Lượng - Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Ảnh: Website nhà trường.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Đại Lượng - Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Ảnh: Website nhà trường.

Đồng tình với ý kiến trên, Tiến sĩ Phạm Kim Thư - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu nghị cho biết, việc bỏ chức danh “trợ giảng” là một điều chỉnh hợp lý, phản ánh đúng thực tiễn phát triển của giáo dục đại học hiện nay.

Thực tế cho thấy, trong nhiều năm qua, đội ngũ trợ giảng ở các trường đại học hầu như không còn giữ vai trò “hỗ trợ giảng dạy” đơn thuần như trước đây. Ở không ít đơn vị, các trợ giảng trực tiếp đảm nhận các công việc tương tự như giảng viên chính thức gồm: tham gia giảng dạy, hướng dẫn sinh viên thực hành, thực tập; hỗ trợ nghiên cứu khoa học và biên soạn tài liệu học tập.

Trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam đang từng bước tiệm cận các chuẩn khu vực và quốc tế, yêu cầu về năng lực của người giảng dạy ngày càng được nâng cao. Các trường đại học không chỉ cần giảng viên có trình độ học vấn, mà còn cần năng lực nghiên cứu, tư duy phản biện và khả năng tự chủ học thuật. Việc loại bỏ chức danh “trợ giảng” là một bước đi cần thiết để thống nhất chuẩn đầu vào, hướng tới xây dựng đội ngũ giảng viên đạt chuẩn ngay từ khâu tuyển dụng.

Khi chỉ còn ba hạng giảng viên, hệ thống chức danh trở nên tinh gọn, minh bạch và có tính định hướng nghề nghiệp cao hơn. Mỗi giảng viên, đặc biệt là giảng viên trẻ sẽ nhìn thấy rõ lộ trình phát triển của bản thân từ khi mới vào nghề cho đến khi đạt trình độ chuyên môn cao.

Lộ trình này không còn bị chia nhỏ bởi những ngạch tạm thời như “trợ giảng” mà tập trung vào nâng cao năng lực thực chất, hiệu quả công việc và thành tích khoa học. Điều đó không chỉ giúp người giảng viên chủ động học tập, phấn đấu đạt chuẩn ở từng giai đoạn, mà còn tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích phát triển năng lực cá nhân thay vì phụ thuộc vào thâm niên hoặc cơ cấu hành chính.

Khi tất cả cùng được xếp trong hệ thống hạng giảng viên thống nhất, các tiêu chí về chuẩn nghề nghiệp, đánh giá năng lực, thăng hạng và khen thưởng cũng trở nên công bằng, minh bạch hơn.

Tóm lại, việc bỏ chức danh “trợ giảng” không chỉ là một thay đổi kỹ thuật trong quy định hành chính, mà là bước điều chỉnh mang tính chiến lược, hướng đến một nền giáo dục đại học hiện đại, nơi năng lực và hiệu quả công việc là thước đo chủ đạo.

Rút ngắn thời gian xét thăng hạng, tạo thuận lợi cho giảng viên trẻ thăng tiến

Một nội dung đáng chú ý khác trong dự thảo thông tư nêu: Giảng viên đại học được đăng ký xét thăng tiến vào chức danh giảng viên đại học chính khi đạt chuẩn nghề nghiệp; có thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giảng viên đại học hoặc tương đương tối thiểu đủ 6 năm đối với người có bằng thạc sĩ; đủ 4 năm đối với người có bằng tiến sĩ; trong đó phải có ít nhất 1 năm (đủ 12 tháng) giữ chức danh nghề nghiệp giảng viên đại học.

Theo Tiến sĩ Phạm Kim Thư, việc rút ngắn thời gian giữ chức danh nghề nghiệp được xem là một tín hiệu rất tích cực trong chính sách phát triển đội ngũ giảng viên đại học. Quy định mới này giúp rút ngắn khoảng 2-3 năm so với trước, mở ra cơ hội để giảng viên, đặc biệt là đội ngũ giảng viên trẻ, có thể sớm được xét thăng hạng, ghi nhận thành tích và khẳng định năng lực nghề nghiệp.

Khi thời gian được rút ngắn, con đường thăng tiến trở nên khả thi hơn, khuyến khích giảng viên chủ động học tập, tích lũy minh chứng nghề nghiệp, tham gia nghiên cứu và công bố khoa học sớm hơn.

Tuy nhiên, chính sự thay đổi tích cực này cũng đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với công tác quản lý nhân sự, hồ sơ và đánh giá chuẩn nghề nghiệp tại các cơ sở đào tạo. Khi chu kỳ xét hạng diễn ra thường xuyên hơn, nhà trường phải đảm bảo hệ thống hồ sơ, minh chứng, kết quả công tác giảng dạy và nghiên cứu của từng giảng viên được cập nhật, lưu trữ và xác thực một cách kịp thời, chính xác. Điều này không chỉ đòi hỏi năng lực quản lý tốt hơn của các phòng tổ chức cán bộ mà còn yêu cầu chuẩn hóa và số hóa toàn bộ quy trình quản trị nhân sự trong nhà trường.

Nói cách khác, việc rút ngắn thời gian xét thăng hạng mang lại thuận lợi cho giảng viên nhưng cũng là áp lực cho các cơ sở đào tạo trong việc xây dựng một hệ thống quản trị nhân sự hiện đại, minh bạch và hiệu quả.

 Tiến sĩ Phạm Kim Thư - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu nghị. Ảnh: NVCC.

Tiến sĩ Phạm Kim Thư - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu nghị. Ảnh: NVCC.

Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trung Cang - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiên Giang đánh giá, việc xét thăng hạng cho giảng viên đại học trên cơ sở rút ngắn thời gian được xem là chủ trương phù hợp với bối cảnh hiện nay, khi giáo dục đại học đang đòi hỏi một đội ngũ giảng viên có trình độ, năng lực và động lực phát triển nghề nghiệp rõ ràng.

“Theo quy định, mỗi hạng chức danh giảng viên đều có tiêu chuẩn cụ thể về trình độ đào tạo, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và nhiệm vụ chuyên môn, đảm bảo rằng việc thăng hạng không chỉ dựa trên yếu tố thời gian công tác mà quan trọng hơn là hiệu quả và chất lượng của hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học.

Việc rút ngắn thời gian xét thăng hạng giúp những giảng viên có năng lực thực sự, đáp ứng đầy đủ điều kiện có cơ hội được ghi nhận và thăng tiến sớm hơn, thay vì phải chờ đợi theo niên hạn như trước đây.

Đây là một tín hiệu tích cực, bởi lẽ khi lộ trình thăng tiến trở nên khả thi và minh bạch hơn, giảng viên đặc biệt là đội ngũ trẻ sẽ có thêm động lực học hỏi, đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao trình độ chuyên môn và đẩy mạnh nghiên cứu khoa học.

Thực tế cho thấy, những cơ chế khuyến khích gắn với năng lực và kết quả công việc thường tạo ra hiệu ứng tích cực, giúp hình thành môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy giảng viên nỗ lực khẳng định bản thân thay vì trông chờ vào thâm niên.

Đối với các cơ sở đào tạo công lập, chính sách rút ngắn thời gian xét thăng hạng còn mang lại lợi thế đáng kể trong công tác thu hút và giữ chân nhân sự chất lượng cao. Khi cơ hội phát triển nghề nghiệp được mở rộng, giảng viên có xu hướng gắn bó lâu dài với nhà trường, thay vì tìm kiếm môi trường khác có điều kiện thăng tiến nhanh hơn. Đây là yếu tố quan trọng để các trường duy trì ổn định đội ngũ, đồng thời xây dựng hình ảnh môi trường học thuật chuyên nghiệp, có chính sách nhân sự linh hoạt và nhân văn.

Đồng thời, khi số lượng giảng viên đạt các hạng chức danh cao hơn tăng lên, chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học trong nhà trường cũng được nâng lên tương ứng. Mỗi hạng giảng viên đều gắn với yêu cầu cao hơn về năng lực chuyên môn, công bố khoa học, hướng dẫn nghiên cứu sinh hay tham gia đề tài cấp bộ, cấp Nhà nước. Vì vậy, việc rút ngắn thời gian xét thăng hạng không chỉ là chính sách khuyến khích cá nhân, mà còn là động lực thúc đẩy phát triển chất lượng toàn hệ thống giáo dục đại học”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trung Cang nhận định

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trung Cang - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiên Giang. Ảnh: NVCC.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trung Cang - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiên Giang. Ảnh: NVCC.

Ngoài ra, thầy Cang cho biết, việc nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên luôn được Trường Đại học Kiên Giang quan tâm và xem là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển.

Trong thời gian qua, nhà trường đã triển khai nhiều chính sách đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ, trong đó có việc tạo điều kiện và hỗ trợ giảng viên trong lộ trình nâng ngạch, phát triển nghề nghiệp.

Một trong những chính sách nổi bật là chính sách khuyến khích và hỗ trợ xuất bản khoa học. Nhà trường hiện có cơ chế hỗ trợ tài chính cho các bài báo được đăng tải trên tạp chí có chỉ mục trong hệ thống SCOPUS và Web of Science (WoS), đồng thời khuyến khích giảng viên biên soạn và xuất bản giáo trình, tài liệu giảng dạy phục vụ đào tạo. Đây được xem là động lực quan trọng để giảng viên không ngừng nâng cao năng lực nghiên cứu, cập nhật kiến thức mới và đóng góp vào kho tri thức chung của nhà trường.

Bên cạnh đó, Trường Đại học Kiên Giang cũng chú trọng đến chính sách ưu tiên trong hoạt động nghiên cứu khoa học, thể hiện qua việc phân bổ đề tài cấp trường, tạo cơ hội cho giảng viên trẻ được chủ nhiệm hoặc tham gia nhóm nghiên cứu. Ngoài ra, nhà trường còn tích cực hỗ trợ giảng viên kết nối với địa phương, doanh nghiệp để đề xuất và thực hiện các đề tài nghiên cứu ứng dụng, góp phần gắn kết hoạt động đào tạo, nghiên cứu với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội.

Thúy Hiền

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/rut-ngan-thoi-gian-xet-thang-hang-tao-dong-luc-de-giang-vien-thang-tien-trong-cong-viec-post255144.gd