Sản xuất hữu cơ: Hướng đi bền vững của ngành chè Việt Nam

Trong bối cảnh áp lực cạnh tranh ngày càng lớn, các chuyên gia cho rằng để cải thiện kết quả xuất khẩu, ngành chè Việt Nam cần tập trung vào chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm, đặc biệt thúc đẩy sản xuất theo quy trình hữu cơ nhằm nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường bền vững…

Canh tác chè theo quy trình hữu cơ là hướng đi tất yếu của ngành chè.

Canh tác chè theo quy trình hữu cơ là hướng đi tất yếu của ngành chè.

Theo số liệu của Cục Hải quan, trong tháng 7/2025, Việt Nam xuất khẩu 13,73 nghìn tấn chè, trị giá 24,2 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2024, xuất khẩu giảm 10,3% về lượng và 11,6% về giá trị. Tính chung 7 tháng năm 2025, xuất khẩu chè đạt 71,63 nghìn tấn, trị giá gần 121 triệu USD, giảm 8,7% về lượng và giảm 9,4% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.

XUẤT KHẨU CHÈ VIỆT NAM GIẢM, ÁP LỰC CẠNH TRANH NGÀY CÀNG LỚN

Pakistan tiếp tục là thị trường lớn nhất của chè Việt Nam. Trong 7 tháng đầu năm, xuất khẩu sang thị trường này đạt 23,92 nghìn tấn, trị giá 45,77 triệu USD, tăng 5,7% về lượng nhưng giảm 2,4% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.

Trung Quốc đứng thứ hai với 7,83 nghìn tấn, trị giá 11,46 triệu USD, giảm 2,4% về lượng nhưng tăng 1,3% về giá trị. Ngoài ra, xuất khẩu chè Việt Nam tăng trưởng khả quan tại một số thị trường như Iraq, Ấn Độ, Philippines, Ả Rập Xê-út, Kazakhstan… Ngược lại, xuất khẩu sang Đài Loan, Nga, Hoa Kỳ, Indonesia, UAE và Ba Lan lại sụt giảm.

Theo dự báo của Hiệp hội Chè Việt Nam, từ nay đến cuối năm 2025, xuất khẩu chè Việt Nam có thể phục hồi nhẹ nhờ nhu cầu tăng tại các thị trường chủ lực như Iraq, Ấn Độ, Philippines, đồng thời mở ra cơ hội tại Trung Đông, Nam Á và châu Phi. Tuy nhiên, giá chè thế giới vẫn ở mức thấp, cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia sản xuất lớn như Kenya, Sri Lanka, Ấn Độ, cùng với nhu cầu giảm tại một số thị trường lớn, sẽ hạn chế tốc độ tăng trưởng.

Giá chè xuất khẩu bình quân của Việt Nam trong 7 tháng của năm 2025 chỉ được 1.685 USD/tấn, giảm nhẹ 0,8%, và hiện chỉ bằng ½ so với giá chè xuất khẩu bình quân trên thế giới. Những con số này cho thấy ngành chè Việt Nam vẫn chịu áp lực cạnh tranh lớn và nhu cầu tiêu thụ suy giảm tại nhiều thị trường truyền thống.

Các chuyên gia cho rằng để cải thiện kết quả xuất khẩu, ngành chè Việt Nam cần tập trung vào chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm và đẩy mạnh xúc tiến thương mại, nhằm nâng cao giá trị tăng và mở rộng thị trường bền vững. Đặc biệt, sản xuất chè hữu cơ là hướng đi “sống còn” để nâng cao giá xuất khẩu cho chè Việt Nam, qua đó nâng cao thu nhập cho người dân trồng chè và mở ra con đường phát triển bền vững cho ngành chè Việt Nam.

TS.Nguyễn Ngọc Bình, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, cho rằng trong nhiều thập kỷ qua, sản xuất chè của Việt Nam chủ yếu chạy theo năng suất. Người dân tập trung vào phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật tổng hợp để tăng sản lượng. Hệ quả là đất bị thoái hóa, ô nhiễm môi trường, chất lượng chè suy giảm, tuổi thọ cây chè ngắn lại, đồng thời ảnh hưởng tới sức khỏe người lao động trực tiếp.

Theo TS.Bình, chính vì chất lượng không cao nên giá bán chè Việt Nam nhiều năm qua vẫn thấp, doanh thu của người trồng chè không được cải thiện. Trong khi đó, nhu cầu của thị trường ngày càng thay đổi: người tiêu dùng trong và ngoài nước đòi hỏi sản phẩm an toàn, chất lượng, thân thiện với môi trường. Các thị trường xuất khẩu cũng siết chặt quy định. Đây chính là động lực để ngành chè chuyển từ sản xuất hóa học sang an toàn và tiến tới hữu cơ.

THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC TRONG CHUYỂN ĐỔI SANG CHÈ HỮU CƠ

Nói về quá trình chuyển sang chè hưu cơ, TS.Bình cho biết có thuận lợi nhờ sự quan tâm của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và các địa phương thông qua nhiều chính sách hỗ trợ. Nhận thức của người sản xuất cũng đã thay đổi, chú trọng hơn tới sức khỏe và hiệu quả lâu dài.

Tuy vậy, những khó khăn không nhỏ vẫn tồn tại. Thời gian chuyển đổi kéo dài 18–36 tháng khiến năng suất giảm. Công nghệ và giải pháp khoa học cho sản xuất hữu cơ chưa hoàn thiện, trong khi cơ chế chính sách chưa đủ mạnh để khuyến khích nông dân chuyển đổi triệt để.

Nhiều địa phương sản xuất chè trọng điểm trên cả nước hiện đang tiên phong chuyển đổi sản xuất chè sang hướng canh tác hữu cơ. Tại Thái Nguyên, Hợp tác xã trà du lịch cộng đồng Tiến Yên do ông Bùi Trọng Đại làm giám đốc đã thay đổi toàn diện tập quán canh tác, gắn sản xuất với du lịch cộng đồng. “Chè sạch, chè an toàn đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, bán được giá cao hơn, nông dân nhờ đó có động lực mạnh mẽ để chuyển sang làm chè hữu cơ”, ông Đại chia sẻ.

Ở miền Trung du, thế hệ doanh nghiệp chè mới cũng thổi luồng gió mới bằng tư duy đổi mới, xây dựng thương hiệu. Trong khi đó, tại Lâm Đồng – vùng chè có lịch sử hơn 100 năm, với định hướng sản xuất chè hữu cơ và “chè carbon thấp” đã giúp địa phương duy trì năng suất dẫn đầu cả nước, đạt bình quân 15 tấn/ha năm 2024.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Đoàn Anh Tuân, Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Thế hệ mới, nhấn mạnh sản xuất hữu cơ là “hướng đi cấp thiết” bởi người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến an toàn và bền vững. Với các sản phẩm hữu cơ, doanh nghiệp không chỉ đáp ứng thị hiếu thị trường mà còn nâng tầm thương hiệu.

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc được Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao xây dựng quy trình kỹ thuật canh tác chè hữu cơ. Dự kiến đến khoảng tháng 11 hoặc tháng 12/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ thông qua quy trình kỹ thuật này và chính thức ban hành để phục vụ kịp thời cho sản xuất canh tác của ngành chè”.

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Bình, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc.

“Sản phẩm hữu cơ giúp thương hiệu được định vị ở tầm cao mới, tạo sự khác biệt và sức cạnh tranh. Dù khó làm nhưng khi đã thành công, đây sẽ là lợi thế bền vững”, ông Tuân khẳng định, và cho biết hiện sản phẩm chè Cozy của Công ty TNHH Thế hệ mới đã phát triển vùng nguyên liệu khép kín 4.500 ha, xuất khẩu tới hơn 60 quốc gia, trở thành thương hiệu quốc gia của chè Việt.

Theo ông Tuân, một điểm đáng chú ý là thói quen sử dụng chè cũng thay đổi. Nếu trước đây chủ yếu dùng để pha uống, thì nay bột trà xanh (matcha) được dùng trực tiếp trong thực phẩm như bánh ngọt, kem, đồ uống. Điều này đặt ra yêu cầu khắt khe hơn về an toàn và nguồn gốc hữu cơ.

“Trước kia, hơn 95% dư lượng thuốc trừ sâu không hòa tan trong nước trà, ít ảnh hưởng đến người uống. Nhưng với matcha, người tiêu dùng nạp trực tiếp bột trà vào cơ thể, nên yêu cầu về an toàn và hữu cơ trở thành bắt buộc”, ông Đoàn Anh Tuân nhấn mạnh.

Để hiện thực hóa chiến lược chè hữu cơ, công tác nghiên cứu khoa học giữ vai trò then chốt. TS.Bình cho hay Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đang tập trung chọn tạo giống chè phù hợp với canh tác hữu cơ, có khả năng chịu hạn, chịu nóng và thích ứng với biến đổi khí hậu. Những giống chè này phải giàu polyphenol, theanine, EGCG – các chất có lợi cho sức khỏe và chống oxy hóa.

Ngoài ra, Viện cũng nghiên cứu phân bón hữu cơ, chế phẩm vi sinh, thuốc bảo vệ thực vật nguồn gốc thảo mộc thay thế hóa chất. Về chế biến, các công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại được ứng dụng để bảo đảm chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế.

Theo các chuyên gia, phát triển chè hữu cơ mang lại nhiều lợi ích: thay đổi tư duy sản xuất từ hóa học sang sinh thái bền vững, nâng cao giá trị sản phẩm, gia tăng thu nhập cho nông dân, nâng tầm vị thế chè Việt trên thị trường quốc tế, đồng thời bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Chu Khôi

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/san-xuat-huu-co-huong-di-ben-vung-cua-nganh-che-viet-nam.htm