'Sáng nào, các cô cũng đến từng nhà đưa trẻ đến trường...'
Buổi sáng ở bản Rào Tre (xã Phúc Trạch, Hà Tĩnh) bắt đầu bằng tiếng cô bảo mẫu đến từng nhà gọi trẻ ríu rít, tiếng xoong nồi lách cách ở gian bếp nhỏ và những bài học hát đánh vần tiếng Việt.
Giữa dãy núi Giăng Màn trùng điệp của xã Phúc Trạch, bản Rào Tre - nơi cư trú của cộng đồng dân tộc Chứt với 46 hộ dân và 161 nhân khẩu - dù có điện, đường, nhà ở kiên cố nhưng người dân nơi đây vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn, nhất là trong việc tiếp cận giáo dục mầm non củatrẻ nhỏ.

Điểm lớp ghép bản Rào Tre (Trường Mầm non Hương Liên) được đầu tư cơ sở vật chất khang trang là nơi học tập, sinh hoạt của 19 em học sinh đồng bào dân tộc Chứt.
Tại điểm lớp ghép bản Rào Tre (thuộc Trường Mầm non Hương Liên), cô giáo Hoàng Thị Hương (SN 1975, xã Phúc Trạch) và cô Phan Thị Hoài Mơ (SN 1994, xã Hương Khê) vẫn bền bỉ gieo từng con chữ và chăm sóc tận tình cho 19 trẻ em dân tộc Chứt, giúp các em không bị bỏ lại phía sau trong dòng chảy phát triển của xã hội.
Cô Hoàng Thị Hương đã có 24 năm cắm bản, còn cô Nguyễn Thị Mơ - người đồng hành trẻ hơn cũng đã cùng các em lớn lên qua từng năm học. Hai cô giáo, một lớp học ghép 3 độ tuổi (3 – 5 tuổi) và một ngôi bản nhỏ đang dần thay đổi.


Cô giáo Hoàng Thị Hương (áo đỏ) và cô Phan Thị Hoài Mơ bền bỉ gieo chữ cho trẻ em dân tộc Chứt.
Thay đổi không đến từ những điều lớn lao mà từ việc, hôm nay đứa trẻ ấy biết gọi “cô ơi” bằng tiếng phổ thông. Ngày mai, em có thể tự xúc ăn mà không cần nhắc. Rồi sau đó là thuộc một bài thơ, xếp gọn chiếc khăn, hay tự tin vẫy tay chào bạn. Những điều tưởng nhỏ ấy ở “bản Chứt” thân thương là cả một hành trình.
19 em nhỏ đều là con em người Chứt – dân tộc thiểu số ít người, từng sống tách biệt, ngôn ngữ riêng, lối sống truyền thống. Đến nay, bản đã có đường, có điện, có sóng điện thoại, nhưng chuyện học vẫn là điều xa lạ với nhiều bậc phụ huynh lớn tuổi và ngôn ngữ vẫn là một rào cản thầm lặng. Có em vào lớp chưa nói sõi tiếng phổ thông. Có em sợ lớp học, rụt rè, bám áo cô cả tuần lễ đầu. Có em đến lớp nhưng không ăn, không ngủ, chỉ vì nhớ mẹ. Và có những phụ huynh từng không muốn cho con đi học vì nghĩ: “Ở nhà với ông bà cũng được...”.



Lớp học được đầu tư khang trang, thiết bị dạy học tiện nghi không kém gì miền xuôi.
Trẻ 4-5 tuổi ở bản Rào Tre đã dần quen với tiếng Việt, nhưng các em nhỏ mới 2 tuổi khi đến trường vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận ngôn ngữ phổ thông. Để hỗ trợ các em, giáo viên thường dạy tiếng Việt qua hình ảnh trực quan, tận dụng những giờ nghỉ trưa hoặc sinh hoạt ngoài trời để tạo môi trường học thoải mái, gần gũi.
“Do hậu quả của hôn nhân cận huyết nhiều đời, phần lớn trẻ ở đây không nhanh nhẹn như trẻ vùng xuôi, đòi hỏi giáo viên phải đặc biệt kiên trì và linh hoạt trong cách dạy. Trước đây, điểm trường còn tạm bợ, thiếu cổng che chắn khiến nhiều trẻ dễ bỏ về nhà giữa giờ học. Tuy nhiên, hiện nay, trường đã được đầu tư khang trang hơn, việc dạy học cũng được tổ chức linh hoạt với các nhóm riêng”, cô Hoàng Thị Hương cho biết.
Mỗi ngày, cô Hương và cô Mơ đều đến lớp từ sáng sớm để chuẩn bị bữa ăn bán trú, một việc quan trọng không kém dạy chữ, bởi với nhiều em, chỉ thực sự được ăn đủ chất khi... đến trường.

Những "bảo mẫu" ở vùng rẻo cao Hà Tĩnh gác lại thiệt thòi, tận tâm chăm sóc cho từng em học sinh.
Cơm, canh, trứng, thịt, rau…, tất cả đều được các cô lo liệu chu đáo. Có trẻ biếng ăn, các cô ngồi bên cạnh dỗ từng thìa. Có trẻ ốm, các cô theo dõi từng chút một. Các em đến lớp không chỉ để học mà còn để được yêu thương theo đúng nghĩa đen.
Nhiều năm gắn bó, điều mà các cô thấy vui nhất không phải là kết quả thi đua hay danh hiệu, mà là khi phụ huynh chủ động dặn “Mai cô nhớ đón cháu đi học nhé”, là khi trẻ khoe “con thuộc bài thơ rồi”, là lúc một đứa bé từng rụt rè nay dám đứng hát giữa lớp, mắt sáng rực như nắng rừng. Ở vùng núi, những thành quả như thế không đến trong một tháng hay một kỳ học, mà là kết tinh của từng năm bền bỉ. Không có bảng điểm nào đo được.

Để vận động phụ huynh cho con đến lớp, 2 cô giáo phải phối hợp với cán bộ biên phòng tuyên truyền, từng bước tạo sự tin tưởng.
Cô Mơ chia sẻ: “Ở đây, trẻ cần mình. Và mình cũng cần có chúng để thấy mình còn có ích. Con đường vào bản rất khó khăn, mùa nắng hay mùa mưa đều thử thách như nhau. Tôi tình nguyện gắn bó với các em dân tộc Chứt, bởi niềm vui lớn nhất là thấy các em từng ngày tiến bộ, dù khó khăn không ít. 100% bà con ở đây là dân tộc Chứt, phương tiện đi lại hạn chế, nhận thức về giáo dục còn thấp. Để vận động phụ huynh cho con đến lớp, chúng tôi phải phối hợp với cán bộ biên phòng tuyên truyền, từng bước tạo sự tin tưởng. Mỗi sáng, chúng tôi đi từng nhà gọi các em dậy, sau đó chăm sóc các cháu như con ruột của mình”.
Sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường và lãnh đạo địa phương đã trở thành điểm tựa vững chắc trên hành trình gieo chữ nơi bản Rào Tre. Cùng đồng hành trên những con đường gian nan, họ đã góp phần cải thiện hệ thống đường sá, giúp việc đi lại không còn là trở ngại lớn như trước. Những năm gần đây, con đường đến lớp trở nên dễ dàng hơn nhiều. Phương pháp giáo dục đổi mới, gần gũi với trẻ, xem cô giáo như người bạn đồng hành đã giúp các em tự tin hơn, tiếp thu kiến thức hiệu quả, gạt bỏ dần sự e dè, rụt rè ban đầu.

Nhờ chính sách của Đảng, Nhà nước cùng sự chung tay của chính quyền địa phương và lực lượng biên phòng, cơ sở vật chất, đời sống ở vùng rẻo cao Hà Tĩnh đã chuyển biến rõ rệt.
Sự hỗ trợ từ Đảng, Nhà nước và các cấp, ngành đã mang lại những thay đổi rõ rệt cho đời sống người dân tộc Chứt. Bà con dần làm quen với sản xuất nông nghiệp, cuộc sống ngày càng ổn định và khấm khá hơn. Tại điểm trường, trẻ em được vui chơi, học tập và hòa nhập như những đứa trẻ ở miền xuôi, mở ra một tương lai tươi sáng hơn cho cộng đồng bản nhỏ giữa núi rừng Hà Tĩnh.
Dạy trẻ vùng cao vốn đã nhiều vất vả, nhưng với cộng đồng người Chứt, việc duy trì việc học càng khó hơn do rào cản ngôn ngữ, điều kiện kinh tế và nhận thức giáo dục còn hạn chế. Đầu mỗi năm học, địa phương vận động nguồn lực xã hội hóa, lồng ghép chính sách hỗ trợ để tặng gạo, xây nhà, tổ chức các chương trình truyền thống giúp gắn kết cộng đồng và khuyến khích trẻ đến trường.
Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cấp ngành, mặt trận Tổ quốc, Đồn Biên phòng Bản Giàng và Tổ công tác bản Rào Tre, đời sống bà con đã có nhiều thay đổi tích cực. Trẻ em được học tập đầy đủ, nhà ở kiên cố, có điện, có nước sạch, và quan trọng hơn là người dân dần nhận thức rõ tác hại của hôn nhân cận huyết - vấn đề từng là trở lực lớn với cộng đồng. Từ một bản làng biệt lập, Rào Tre đang từng bước hòa vào nhịp sống chung với xã hội.
Ông Dương Ngọc Hoàng – Chủ tịch UBND xã Phúc Trạch