Siết đào tạo ngành y, luật: Cần quản lý chất lượng thực chất
Siết điều kiện đào tạo ngành y, luật có thể giúp kiểm soát đầu vào, nhưng chưa đủ bảo đảm chất lượng đào tạo lâu dài nếu thiếu cơ chế giám sát.

TS. Luật sư Đặng Thị Thu Huyền - Trưởng khoa Luật, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, nguyên Phó Chánh Thanh tra Bộ GD&ĐT.
Trong bối cảnh chủ trương siết chặt điều kiện mở ngành đối với các lĩnh vực đặc thù như Y khoa và Luật đang thu hút nhiều ý kiến trái chiều, Báo Giáo dục & Thời đại trao đổi với Tiến sĩ, Luật sư Đặng Thị Thu Huyền - Trưởng khoa Luật, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, nguyên Phó Chánh Thanh tra Bộ GD&ĐT.
Từ đó, làm rõ liệu việc siết mở ngành có thực sự giải quyết căn cơ bài toán chất lượng đào tạo hay mới chỉ dừng ở khâu điều tiết đầu vào của hệ thống giáo dục đại học.
- Chủ trương siết chặt điều kiện mở ngành đối với các lĩnh vực đặc thù như y khoa và luật đang được bàn luận nhiều. Biện pháp siết mở ngành liệu có giải quyết được gốc rễ chất lượng đào tạo hay chỉ là bước "phần ngọn" nếu hệ thống quản lý chất lượng chưa thực sự hoàn chỉnh thưa bà?
Việc siết chặt điều kiện mở ngành như đang được bàn luận hiện nay mới chỉ là một công cụ mang tính điều tiết đầu vào.
Mở ngành dựa trên các tiêu chí định lượng về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất hay phòng thí nghiệm có thể giúp hạn chế tình trạng mở ngành tràn lan.
Tuy nhiên, không ít chương trình đào tạo dù đạt chuẩn tại thời điểm được cho phép mở ngành nhưng năng lực có thể suy giảm theo thời gian do biến động nhân sự cốt lõi hoặc cắt giảm đầu tư.
Trong bối cảnh đó, Bộ GD&ĐT đã ban hành nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh quy định về điều kiện mở ngành, nếu hệ thống kiểm định chương trình, cơ chế giám sát chất lượng và chuẩn năng lực đầu ra chưa được hoàn thiện đồng bộ, việc siết mở ngành vẫn chỉ tác động ở "phần ngọn", chưa thể xử lý các điểm nghẽn nằm sâu bên dưới của chất lượng đào tạo.

Sinh viên trải nghiệm phiên tòa giả định tại trường. Ảnh: NTTU.
- Có ý kiến cho rằng chỉ trường y mới nên đào tạo bác sĩ, chỉ trường luật mới nên đào tạo cử nhân luật. Dưới góc nhìn quản trị đại học, bà đánh giá thế nào về cách tiếp cận tên trường quyết định quyền đào tạo? Liệu rằng việc này có mâu thuẫn gì với nguyên tắc tự chủ đại học không thưa bà?
Quan điểm tên gọi quyết định quyền đào tạo thực chất phản ánh một tư duy quản lý hành chính và không phù hợp với triết lý quản trị hiện đại của giáo dục đại học.
Dưới góc độ thiết kế hệ thống, việc gắn quyền đào tạo bác sĩ hoặc cử nhân luật với danh xưng "trường Y", "trường Luật" không tạo ra bất kỳ bảo chứng nào cho chất lượng, làm suy giảm năng lực hoạch định chính sách dựa trên tiêu chuẩn.
Vấn đề cốt lõi chất lượng không đến từ tên gọi, mà từ điều kiện đảm bảo chất lượng.
Nếu quyền mở ngành dựa vào tên trường sẽ trái với nguyên tắc tự chủ về học thuật, vốn là nền tảng trong Luật Giáo dục đại học và có thể dẫn đến tình trạng ưu tiên "đổi tên" thay vì đầu tư vào chất lượng thật.

Sinh viên Trường Đại học Nguyễn Tất Thành tốt nghiệp. Ảnh: NTTU.
- Trọng tâm phải nằm ở điều kiện bảo đảm chất lượng như đội ngũ giảng viên, chuẩn đầu ra, điều kiện thực hành, thực tập, kiểm định chương trình… Theo bà, ở Trường Đại học Nguyễn Tất Thành nói riêng và trong thực tiễn quản trị đào tạo nói chung, đâu là bộ tiêu chí cốt lõi mà bất kỳ cơ sở nào muốn đào tạo ngành y - luật đều phải đáp ứng, bất kể là trường chuyên hay trường đa ngành?
Với quan điểm quản trị hệ thống, chất lượng đào tạo cần được kiểm soát một cách thực chất và xuyên suốt, dựa trên những trụ cột căn bản.
Đó là hệ thống kiểm định đối với chương trình đào tạo và cơ sở giáo dục; năng lực chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn của đội ngũ giảng viên cùng các điều kiện học thuật đi kèm; khả năng kết nối với môi trường nghề nghiệp, cơ sở thực tập và các thiết chế liên quan.
Bên cạnh đó, điều kiện thực hành - thực tập, hệ sinh thái hỗ trợ học tập, cùng chuẩn đầu ra và chuẩn năng lực nghề nghiệp của người học phải được xác lập rõ ràng và giám sát thường xuyên.
Bộ tiêu chí cốt lõi này không phụ thuộc vào việc cơ sở đào tạo mang danh xưng "trường chuyên" hay "đại học đa ngành".
Trọng tâm nằm ở năng lực thực tế trong việc đáp ứng chuẩn nghề nghiệp do Nhà nước đặt ra, đồng thời thực hiện đầy đủ các chuẩn bảo đảm chất lượng mà chính cơ sở đào tạo đã công bố và cam kết.
- Bà có thể chia sẻ một vài ví dụ thực tế tại Trường Đại học Nguyễn Tất Thành về cách triển khai các tiêu chí này?
Với kinh nghiệm ở Trường Đại học Nguyễn Tất Thành và quan sát rộng hơn trong hệ thống, có thể thấy các tiêu chuẩn nền tảng cốt lõi về đội ngũ và điều kiện thực hành, thực tập cùng với hệ sinh thái học tập được đầu tư bài bản.
Về năng lực đội ngũ giảng viên và chuyên gia thực hành, đây là tiêu chí đầu tiên và mang tính quyết định.
Giảng viên cơ hữu phải đáp ứng chuẩn trình độ, đặc biệt là năng lực chuyên môn, nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn.
Mô hình hiệu quả là cấu trúc "3 lớp giảng viên": giảng viên cơ hữu, giảng viên kiêm nhiệm từ bệnh viện hoặc cơ quan tư pháp và giảng viên thỉnh giảng chất lượng cao.
Ở khối ngành Y dược đã triển khai mô hình tổ hợp giảng viên bệnh viện, phối hợp chặt với các bệnh viện tuyến cuối TPHCM để bác sĩ lâm sàng trực tiếp tham gia giảng dạy.
Ở khoa Luật, nhiều môn học được giảng dạy bởi chuyên gia hành nghề: luật sư tranh tụng, thẩm phán, kiểm sát viên...
Điều này giúp người học tiếp cận đúng và đủ các yêu cầu cốt lõi của nghề nghiệp.

Sinh viên khối ngành sức khỏe trong giờ thực hành. Ảnh: NTTU.
Đội ngũ giảng viên của Khoa Luật hiện nay đều là những nhà giáo có bề dày kinh nghiệm thực tiễn, nhiều người đã gắn bó với hoạt động nghề nghiệp hơn 20 năm, qua đó bảo đảm tính gắn kết giữa lý thuyết và thực hành trong đào tạo.
Cùng với đó, điều kiện thực hành - thực tập được chú trọng thông qua việc xây dựng hệ sinh thái học tập đa dạng, từ mô hình tòa án giả định đến mạng lưới hợp tác chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng và tổ chức hành nghề luật.
Sinh viên không chỉ học trong giảng đường mà còn được tham gia xử lý hồ sơ, tình huống thực tế tại tòa án, viện kiểm sát và các văn phòng luật, từng bước hình thành năng lực nghề nghiệp ngay trong quá trình đào tạo.
- Tại nhiều quốc gia như Mỹ, Anh, Canada hay Úc, các chương trình luật và y đều triển khai ở đại học đa ngành và được kiểm soát bằng chuẩn chất lượng chứ không dựa vào tên trường. Việt Nam có thể học gì từ mô hình này để vừa đảm bảo chất lượng đào tạo, vừa tránh can thiệp hành chính quá mức vào quyền tự chủ của các trường, thưa bà?
Việc các quốc gia như Mỹ, Anh, Canada, Úc triển khai đào tạo Y và Luật trong mô hình đại học đa ngành cho thấy một nguyên tắc xuyên suốt, Nhà nước không quản lý bằng tên gọi hay loại hình trường, mà quản lý bằng chuẩn chất lượng và cơ chế kiểm định.
Đây là thông điệp quan trọng đối với Việt Nam trong bối cảnh đang thảo luận siết mở ngành Y và Luật.
Dưới góc độ quản trị hệ thống, Việt Nam có thể tham khảo để vừa bảo đảm chất lượng thực chất, vừa tránh can thiệp hành chính quá mức vào quyền tự chủ.
Điểm chung là cần đầu tư chiều sâu vào tiêu chuẩn chất lượng, không vào tên gọi. Nếu quá siết bằng mệnh lệnh hành chính sẽ triệt tiêu sáng tạo và tính khác biệt của mỗi trường.
Việc áp dụng tư duy quản lý bằng danh xưng dễ dẫn đến hạn chế năng lực phát triển của các trường đa ngành, tạo mâu thuẫn với nguyên tắc tự chủ, làm quá tải cơ quan quản lý, bỏ lỡ cơ hội phát triển những mô hình đào tạo mới.
Để nâng chất lượng đào tạo Y và Luật một cách bền vững, Việt Nam cần quản trị theo chuẩn chất lượng.
Điều này vừa phù hợp với xu thế quốc tế, vừa bảo đảm quyền tự chủ đại học, đồng thời tạo động lực để các trường quan tâm đầu tư vào đội ngũ, thực hành, kiểm định
- Trân trọng cảm ơn bà.
Tại Hội nghị sơ kết triển khai Chương trình tăng cường kiểm soát và nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân luật vào ngày 12/12, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc nhấn mạnh, việc ban hành chuẩn chương trình đào tạo là bước then chốt để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp lý.
Theo Thứ trưởng Phúc, Bộ GD&ĐT sẽ ban hành chuẩn chung đối với các ngành, riêng ngành Luật sẽ có chuẩn ở mức cao hơn, đồng thời hoàn thiện hệ thống chuẩn chương trình đào tạo áp dụng thống nhất trên toàn quốc.
Thứ trưởng cho biết, nhu cầu xã hội về nhân lực ngành luật rất lớn, trong đó tỷ lệ làm việc tại cơ quan nhà nước chiếm phần nhỏ, còn khu vực doanh nghiệp chiếm phần lớn.
Điều này đòi hỏi chương trình đào tạo phải thực chất, bài bản và đáp ứng đúng yêu cầu nghề nghiệp.












