Tham gia WTO và FTA: cánh cửa mở ra thời kỳ tăng trưởng cao

Từ nền kinh tế nhỏ, bị tàn phá bởi chiến tranh, Việt Nam đã vươn lên, trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, với quy mô nền kinh tế hiện nay đã tăng hơn gần 100 lần so với năm 1986, thời điểm bắt đầu công cuộc đổi mới. Thu nhập bình quân đầu người từ dưới 100 đô la Mỹ đã tăng gần 50 lần, đạt 4.700 đô la vào năm 2024.

Hội nhập và nâng cao vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu

Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mở ra cơ hội hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu và thúc đẩy cải cách môi trường kinh doanh và mở rộng thị trường xuất khẩu. Chỉ sau vài năm kể từ khi gia nhập WTO, theo số liệu của Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, xuất khẩu tăng từ 48,5 tỉ đô la Mỹ năm 2007 lên khoảng 264 tỉ đô năm 2019, mở rộng thị trường ra hơn 200 quốc gia và đối tác lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản.

Chuyên gia kinh tế TS. Huỳnh Thanh Điền nhận định, hội nhập thúc đẩy cải cách môi trường kinh doanh, pháp luật, cạnh tranh lành mạnh và xây dựng thương hiệu quốc gia. Trong lĩnh vực thương mại, Việt Nam đã chủ động tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) quan trọng như CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP.

Hội nhập quốc tế giúp việc xuất khẩu của nhiều ngành hàng tăng cao. Ảnh: Hùng Lê

Hội nhập quốc tế giúp việc xuất khẩu của nhiều ngành hàng tăng cao. Ảnh: Hùng Lê

Tính đến quí 1-2025, Việt Nam đã ký kết và đàm phán hơn 20 FTA, trong đó 16 hiệp định có hiệu lực, mở ra thị trường rộng lớn chiếm đến 90% GDP thế giới. Thông qua việc tham gia các FTA, Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất và nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Ông Trịnh Minh Anh, Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, nhận định các hiệp định FTA giúp đa dạng hóa thị trường, giảm phụ thuộc vào các thị trường truyền thống, đồng thời thúc đẩy dòng vốn FDI chất lượng cao từ các đối tác lớn. Quá trình này đã giúp Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất, cung ứng toàn cầu, nâng cao năng lực cạnh tranh lọt vào nhóm 20 nền kinh tế thương mại lớn nhất thế giới và cũng là một trong 20 nền kinh tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài cao nhất từ năm 2019 đến nay.

Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trưởng và vượt 405 tỉ đô vào năm 2024, năm thứ 9 liên tiếp xuất siêu. Tỷ lệ doanh nghiệp tận dụng ưu đãi thuế từ các FTA đạt khoảng 37% trong năm 2024, phản ánh sự thích ứng và khai thác hiệu quả các lợi thế từ hội nhập. Tính đến tháng 5-2025, cả nước đã thu hút khoảng 44.000 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đăng ký hơn 517 tỉ đô la, góp phần nâng cao năng lực sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu, theo số liệu của Bộ Tài chính.

Công nghệ là chìa khóa nâng cao vị thế quốc gia

Trong bài viết Vươn mình trong hội nhập quốc tế, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Trong thế giới phụ thuộc lẫn nhau như ngày nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó”. Hội nhập không chỉ là mục tiêu mà còn là quá trình liên tục thích ứng, đổi mới để đất nước không bị tụt hậu mà luôn vươn lên mạnh mẽ trên trường quốc tế. Ông nhấn mạnh, bốn Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị ban hành gần đây sẽ là những trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước tiến lên trong kỷ nguyên mới.

Dù đạt nhiều thành tựu, Việt Nam vẫn đối mặt với thách thức lớn trong hội nhập do nội lực còn yếu và chưa cạnh tranh nổi với các nền kinh tế phát triển. Phần lớn giá trị xuất khẩu do doanh nghiệp FDI chiếm lĩnh trong khi doanh nghiệp trong nước thiếu công nghệ, quản trị và khả năng mở rộng thị trường. Các ngành mũi nhọn và doanh nghiệp lớn chưa đủ sức cạnh tranh toàn cầu.

Theo TS. Lê Đăng Doanh, để vượt qua giới hạn này, Việt Nam cần nâng cao năng lực nội tại, phát triển doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ cao. Các chính sách cải cách hành chính, giảm thủ tục, chống tham nhũng, xây dựng chính phủ điện tử và nền kinh tế số là yếu tố then chốt để tạo môi trường kinh doanh minh bạch, hiệu quả hơn. Đồng thời, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khuyến khích sáng tạo, đổi mới công nghệ và xây dựng thương hiệu quốc gia sẽ giúp gia tăng giá trị sản phẩm.

Ông đề cập đến những đổi mới, cải cách tập trung vào bốn đột phá theo nghị quyết của Bộ Chính trị, gồm Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển khoa học, công nghệ, sáng tạo và chuyển đổi số; số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế; số 66-NQ/TW về sửa đổi pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển và số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.

Đáng chú ý, Nghị quyết 59 nhấn mạnh vai trò của phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số như động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực cạnh tranh và giảm phụ thuộc thị trường truyền thống. Đồng thời, nghị quyết đề cập đến việc cần nâng cao vị thế hội nhập quốc tế bằng cách chủ động đóng góp, xây dựng thể chế phù hợp để đất nước vươn lên dẫn đầu các lĩnh vực mới. Việt Nam phải tư duy đổi mới, dựa trên nội lực, tự chủ và sáng tạo để duy trì và nâng cao vị thế trong khu vực và toàn cầu.

“Thu hút FDI chọn lọc, phát triển doanh nghiệp nội địa, đặc biệt hộ kinh tế gia đình, là yếu tố then chốt. Đồng thời, việc tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ, chế biến sâu và xây dựng thương hiệu sẽ nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế”, ông Doanh nhấn mạnh.

Với bước tiến vững chắc, kiên trì và sáng tạo, Việt Nam đang nâng cao vị thế, trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa ảnh hưởng trong khu vực và thế giới. Đây là yếu tố góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, phát triển bền vững trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Lê Hoàng

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/tham-gia-wto-va-fta-canh-cua-mo-ra-thoi-ky-tang-truong-cao/