Sớm mai trên những đồi chè
Sớm hè, sau bữa sáng, tôi nhâm nhi tách trà nóng, tranh thủ tận hưởng cảm giác thư thái sau chuỗi ngày bận rộn. Chén trà ánh màu mật ong, thoảng hương dịu nhẹ. Nhấp ngụm trà, tinh thần như được tiếp thêm nguồn năng lượng cho ngày mới. Tôi chợt nghĩ, không biết từ bao giờ, trong mỗi gia đình Việt, từ nông thôn đến phố thị đều không thể thiếu ấm trà - món quà - thức uống mộc mạc mà khiến lòng người trở nên ấm áp, tình người như được xích lại gần hơn.

Nắng trên nương chè.
Nói đến trà, có lẽ mọi người đều nghĩ đến Thái Nguyên - mảnh đất được thiên nhiên ưu ái về thổ nhưỡng, khí hậu, làm nên chất trà đặc biệt. Trà không chỉ là thức uống mà còn bắc cầu trò chuyện giữa các thành viên gia đình. Trà tiếp khách, trà đón bạn hiền, trà có mặt trong đám cưới, đám hỏi, trong lễ hội,…
Nhờ chén trà, câu chuyện được nối dài hơn, công việc trôi chảy hơn và mối thân tình thêm phần gắn bó. Đã từ lâu, trà trở thành món quà tao nhã của mọi nhà, mọi miền trên đất nước ta.
Những đồi chè thoai thoải hình bát úp nối tiếp nhau như những lớp sóng xanh mềm mạilà vùng chè trên miền núi trung du Thái Nguyên quê tôi. Mỗi sớm mai, cả đồi chè thức giấc, muôn ngàn búp chè non mướt, còn đọng sương, lấp lánh dưới ánh bình minh chào ngày mới. Chăm chút, nâng niu để những búp chè tươi xanh, để chén trà thơm hương, đượm vị là các chị, các mẹ - những nông dân tần tảo sớm khuya, dành tất cả tình yêu với cây chè quê hương.
Sau tháng ngày cần mẫn chăm bón từng gốc chè như chăm sóc đàn con thơ, bàn tay người vun xới lại cẩn thận, khéo léo thu hái từng tôm, từng lá. Hái chè là cả nghệ thuật. Trà đinh chỉ hái một tôm, trà móc câu hái một tôm, hai lá,…,. Chỉ cần sai lệch, vị trà sẽ chẳng thể trọn vẹn.
Tôi còn nhớ những ngày đầu mới về làm dâu, mẹ chồng tôi phải hướng dẫn tôi cẩn thận cách hái. Ban đầu lóng ngóng, vụng về nên tôi hái rất chậm. Còn mẹ và chị dâu đôi tay thoăn thoắt của những người làm chè chuyên nghiệp.
Chè sau khi hái được mang về tãi ra hong gió rồi mới đem sao, tiếp đến công đoạn vò và sao khô. Ngày trước chưa có máy móc hỗ trợ, mọi khâu đều làm thủ công nên để sao được một mẻ chè phải mất nhiều thời gian, công sức.
Mẹ và chị dâu tôi thường thức rất khuya mới sao xong chè đã hái. Mẹ bảo: Chè hái về phải sao trong ngày, nếu để sang hôm sau sẽ bị ôi, trà khi pha sẽ không được thơm ngon trọn vị nữa. Khi màn đêm bao trùm, tĩnh lặng, nhà nhà chìm trong giấc ngủ say thì những mẻ chè khô mới bạc cánh, dậy hương. Vốc nắm trà trên tay ngắm nghía, tôi thấy niềm vui ánh lên trong đôi mắt đã nhiều nếp nhăn của mẹ.
Ngày nay, trà Thái Nguyên không chỉ quẩn quanh trong bao tải, trong túi bóng và buộc bằng dây chuối, sợi lạt như xưa. Trà được chia nhỏ với trọng lượng phù hợp, được nâng niu, hút chân không gọn ghẽ, chỉn chu. Gói chè với mẫu mã tinh tế, đẹp mắt; có truy xuất nguồn gốc rõ ràng nên khách hàng có nhiều sự lựa chọn.
Lúc còn sống, ông nội tôi rất thích trà. Trà là thức uống gắn bó với ông hàng ngày. Để chuẩn bị cho ấm trà ngon, mỗi sáng sớm, ông tôi có thói quen tự tay rửa ấm chén thật sạch sẽ, rồi ra vườn trước cửa nhà hái những bông hoa nhài nhỏ xinh như chiếc cúc áo, trắng muốt, thơm ngọt đặt vào từng chiếc tách úp xuống. Chén trà quyện với hương nhài khiến tâm hồn như được mở ra, thư giãn.
Nhờ đôi bàn tay cần cù, khéo léo của bà tôi mà ông tôi lúc nào cũng có thể thong thả được thưởng thức những ấm trà thơm ngon nhất. Ông bà nội tôi có khoảng đồi nhỏ trồng chè phía sau nhà. Giống chè ta, gieo từ hạt. Cây khỏe, sức sống dẻo dai.
Bà tôi chăm chút từng gốc cây, nhành lá; làm cỏ, bón phân, bắt sâu. Từng động tác chậm rãi mà cẩn trọng. Không phụ công người chăm sóc, những cây chè thân màu nâu xám xù xì tưởng chừng già nua, khô cứng đó lại chồi lên búp non tua tủa, xanh tươi.
Tuổi nghỉ hưu, ông tôi có mấy người bạn vong niên thường đến chơi, sớm chiều bên ấm trà trò chuyện. Ai cũng khen bà tôi sao chè khéo. Những người bạn già chầm chậm nhấp từng ngụm trà như để tận hưởng hương vị đất trời, thong dong tự tại. Niềm vui của tuổi già giản đơn, bình yên là vậy.

"Sóng nhạc" xanh.
Dưới mỗi mái nhà, uống trà là một điều gì đó rất đỗi giản dị, thân thuộc. Trà hiện diện trong đời sống thường nhật: Từ những buổi sáng bình yên, những buổi chiều quây quần bên quán nhỏ, hay cả những khi một mình trầm tư, ngẫm ngợi.
Người xưa có câu: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, nhưng trong nhịp sống hôm nay, tôi nghĩ “Chén trà đầu câu chuyện” cũng không sai. Mời nhau chén trà không chỉ là phép lịch sự mà còn thể hiện sự trân trọng, quý mến. Một chén trà dăm ba câu chuyện, trân quý những khoảnh khắc thư thái, an nhiên; chút lắng lòng để suy ngẫm, chiêm nghiệm về những gì đã qua và những gì sắp tới.
Dọc đất nước Việt Nam, chè có ở mọi nơi nhưng những người sành trà vẫn luôn nhắc đến trà Thái Nguyên như nhắc đến một người bạn tri kỉ. Và trà Thái Nguyên vì thế mà góp mặt khắp mọi miền Tổ quốc. Từ quán nước vỉa hè đến bàn trà trong những ngôi nhà sang trọng. Trà không kén người, không chọn chỗ; không phân biệt giàu nghèo, thân sơ. Chén trà mời nhau là chén tình, chén nghĩa; bình dị mà thấm đượm yêu thương.
Dịp lễ tết, cưới hỏi, gói trà Thái Nguyên mang cả tấm chân tình, ý nhị. Chẳng cầu kì, cao sang mà đượm hồn quê Việt, cứ thế như một lẽ tự nhiên, vấn vít, bền chặt nét văn hóa bao đời: Văn hóa uống trà của người Việt. Giữa tất bật, xô bồ của cuộc sống hiện đại, chén trà là phút nghỉ ngơi giúp ta lấy lại thăng bằng, tìm sự tĩnh tại.
Mải miết với những ồn ào, ngược xuôi ngoài kia rồi cũng có lúc ta muốn tìm một nơi để lắng lòng cùng chén trà, để cảm nhận rõ hơn những bình dị thân quen nhưng gói ghém bao điều ý nhị; và cả những đắng chát ban đầu, nếu kiên trì, nhẫn nại sẽ cảm nhậnvị ngọt phía sau. Cũng như đời người, có trải qua sóng gió mới hiểu được giá trị của sự an yên.
Nguồn Thái Nguyên: https://baothainguyen.vn/van-hoa/202509/som-mai-tren-nhung-doi-che-bd90957/