Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả: Cần hệ thống chính sách đồng bộ, khả thi
Đẩy nhanh chuyển đổi năng lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên quốc gia là yêu cầu tất yếu trong hành trình phát triển bền vững. Tuy nhiên, trước bối cảnh hội nhập quốc tế, việc sửa đổi Luật là một bước đi cấp thiết, đòi hỏi tư duy chính sách đồng bộ, tầm nhìn dài.

Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả: Cần hệ thống chính sách đồng bộ, khả thi. (Ảnh: KIM DUNG)
Nhu cầu chính sách mới từ thực tiễn chuyển đổi năng lượng
Tọa đàm “Thúc đẩy sử dụng năng lượng và hiệu quả: Cần chính sách đồng bộ và khả thi” do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 5/6 đã mang đến một bức tranh cụ thể, đầy chiều sâu và thực tiễn về những điểm nghẽn, kỳ vọng và giải pháp chính sách trong sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Các diễn giả đều thống nhất nhận định: Việt Nam đang đối mặt với những thách thức chưa từng có về năng lượng, cả ở khía cạnh an ninh cung ứng lẫn yêu cầu xanh hóa chuỗi cung ứng trong xuất khẩu.
Theo ông Đặng Hải Dũng, Phó Cục trưởng Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công thương), Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả ban hành từ năm 2010 đã tạo hành lang pháp lý căn bản, góp phần nâng cao ý thức tiết kiệm năng lượng trong toàn xã hội. Tuy nhiên, “trong 10 năm tới, những thách thức phi truyền thống như thuế carbon, tiêu chuẩn xanh ESG, nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng sẽ tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Nếu không nâng cấp thể chế, chúng ta sẽ bị tụt hậu ngay trên sân nhà”, ông Dũng nhấn mạnh.

Ông Đặng Hải Dũng, Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công thương).
Đặc biệt, thị trường châu Âu - một trong những đối tác xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sẽ áp dụng thuế carbon xuyên biên giới (CBAM) từ năm 2026. Trong đó, 80% lượng phát thải được tính từ năng lượng sử dụng trong sản xuất. Nếu không giảm tiêu hao năng lượng, sản phẩm Việt sẽ đối mặt với rào cản thuế quan, đe dọa trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu.
Đáng chú ý, các mô hình tiết kiệm năng lượng hiệu quả đã xuất hiện từ thực tiễn địa phương, cho thấy khi chính sách đến được với người dân, kết quả mang lại không chỉ là giảm chi phí mà còn thay đổi tư duy tiêu dùng năng lượng.
Ông Nguyễn Phương Tuấn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội chia sẻ kết quả khảo sát tại Long An, nơi hàng trăm nông hộ trồng thanh long đã chuyển từ đèn sợi đốt sang đèn LED tiết kiệm điện. “Dù chi phí ban đầu cao hơn, nhưng tổng mức đầu tư lại giảm, thời gian sử dụng lâu hơn, tiết kiệm hơn cho nông dân. Quan trọng nhất là giúp người dân thay đổi nhận thức”, ông Tuấn nhận xét.
Tại Sóc Trăng, EVN phối hợp với người dân nuôi tôm triển khai cải tiến kỹ thuật hệ thống tạo oxy bằng cách hạ động cơ xuống đìa, thay trụ con lăn, giúp giảm tới 37% lượng điện tiêu thụ. Tập đoàn cũng đã hỗ trợ hơn 70.000 hộ dân lắp đặt hệ thống năng lượng mặt trời sản xuất nước nóng. Những sáng kiến này, theo ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng Giám đốc EVN có thể nhỏ về quy mô nhưng mang tính dẫn dắt cao, tạo hiệu ứng lan tỏa. Để những mô hình này nhân rộng, cần một hệ sinh thái chính sách hoàn chỉnh, vừa hỗ trợ về tài chính, vừa thúc đẩy chuyển đổi công nghệ và nâng cao năng lực quản trị năng lượng trong doanh nghiệp.

Ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng Giám đốc EVN
Những điểm mới trong dự thảo Luật sửa đổi
Theo Bộ Công thương, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (sửa đổi) lần này tập trung vào bốn nhóm chính sách lớn: Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước; Phát triển thị trường dịch vụ năng lượng (ESCO); Thiết lập công cụ tài chính thông qua Quỹ hỗ trợ sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Quản lý hiệu suất thiết bị thông qua dán nhãn năng lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật.
Đáng chú ý, mô hình ESCO - vốn phổ biến tại các nước phát triển được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận giải pháp tiết kiệm năng lượng mà không cần đầu tư ban đầu quá lớn. Bên cạnh đó, việc thành lập Quỹ hỗ trợ sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả sẽ cung cấp các gói tài chính ưu đãi, bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật, được thiết kế theo hướng xã hội hóa, huy động vốn quốc tế và duy trì tính bền vững.
Dự thảo Luật cũng được rà soát kỹ để phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Thỏa thuận Paris, Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và các cam kết tại COP26-COP28, hướng tới mục tiêu NetZero năm 2050.
“Luật sửa đổi không chỉ để tiết kiệm điện, mà còn là ‘tấm hộ chiếu xanh’ cho sản phẩm Việt Nam hội nhập thị trường toàn cầu”, ông Nguyễn Phương Tuấn nhấn mạnh.
Hướng đến xã hội sử dụng năng lượng thông minh
Việc hoàn thiện Luật là một bước quan trọng, nhưng để luật đi vào cuộc sống, cần một hệ thống các văn bản dưới luật đầy đủ, cụ thể và khả thi. Theo ông Đặng Hải Dũng, ngay sau khi Luật được Quốc hội thông qua, Bộ Công thương sẽ khẩn trương xây dựng các nghị định, thông tư hướng dẫn, đồng thời yêu cầu các bộ ngành, tùy theo lĩnh vực quản lý xây dựng bộ tiêu chuẩn kỹ thuật, cơ chế kiểm soát và chế tài cụ thể.

Tọa đàm “Thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả: Cần chính sách đồng bộ và khả thi”.
Ông cũng đề xuất tăng cường đào tạo, cập nhật kiến thức cho đội ngũ quản lý năng lượng, nhất là trong bối cảnh tiêu chuẩn ISO và yêu cầu ESG thay đổi liên tục theo thị trường quốc tế.
Về phía doanh nghiệp, ông Võ Quang Lâm cho biết EVN sẵn sàng đồng hành trong vai trò tư vấn kỹ thuật, hỗ trợ kiểm toán năng lượng, điều chỉnh phụ tải và đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái tạo phân tán. EVN cũng đang thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng truyền tải, kết nối các nguồn năng lượng tái tạo từ Tây Bắc, Bắc Trung Bộ về các vùng phụ tải trọng điểm như Đồng bằng sông Hồng.
Ở cấp địa phương, các sở công thương cần xây dựng kế hoạch hành động hằng năm, có chỉ tiêu cụ thể và tổ chức tuyên truyền tới người dân, nhất là tại khu vực nông thôn, nơi còn thiếu thông tin và nguồn lực để triển khai.
Việt Nam là một trong ba quốc gia có tốc độ tăng trưởng tiêu thụ năng lượng cao nhất khu vực Đông Nam Á. Theo số liệu từ Bộ Công thương, sản lượng điện thương phẩm năm 2024 đạt 216 tỷ kWh, trong đó khối doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ chiếm hơn 80%. Tuy nhiên, mức tiết kiệm điện toàn quốc mới đạt khoảng 2,64%, thấp hơn tiềm năng thực tế.
Để khai thác hết dư địa này, ngoài yếu tố công nghệ và tài chính, điều cốt lõi là phải xây dựng được “văn hóa năng lượng thông minh”, nơi mỗi cá nhân, doanh nghiệp đều có nhận thức đúng và hành động thiết thực trong sử dụng năng lượng.
Chính sách chỉ phát huy tác dụng khi được thiết kế đồng bộ từ luật, công cụ tài chính, tiêu chuẩn kỹ thuật, đến hệ thống đánh giá và khi mọi chủ thể trong xã hội đều thấy lợi ích và có động lực tham gia.