Sức sống của tranh dân gian
Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vừa trở thành di sản thứ 17 của Việt Nam được UNESCO ghi danh. Cùng với tranh Đông Hồ, các dòng tranh dân gian khác đang có đời sống dù có thể không sôi động, nhưng vẫn khẳng định các giá trị bền vững trong văn hóa Việt.
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ ở khu phố Đông Khê, phường Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, ra đời cách đây khoảng 500 năm. Những người thợ tài hoa đã tạo ra những bức tranh có đặc trưng riêng về chủ đề, kỹ thuật in, màu sắc và đồ họa bằng kỹ thuật in khắc gỗ. Chủ đề của tranh thường bao gồm tranh thờ, chúc tụng, tranh lịch sử, tranh sinh hoạt, tranh phong cảnh, gắn với tập tục treo tranh vào ngày Tết Nguyên đán, Tết Trung thu, thờ cúng tổ tiên và thờ thần.
Tranh Đông Hồ đã gắn bó với người Việt sâu sắc để thi sĩ Hoàng Cầm từng viết câu thơ:
“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”.
Các công đoạn sáng tác mẫu, khắc ván in, pha màu và in tranh đều được thực hiện hoàn toàn thủ công. Sở dĩ gọi là giấy điệp vì nền giấy sử dụng là giấy dó, được quét thêm bột mài từ vỏ sò điệp, tạo độ cứng, độ bền và bề mặt lấp lánh đặc trưng.
Mẫu tranh được vẽ bằng bút lông, mực nho trên giấy bản, sau đó khắc lên ván gỗ thị. Màu in được chế biến từ nguyên liệu tự nhiên: xanh từ lá chàm, đỏ từ sỏi son, vàng từ hoa hòe và quả dành dành, trắng từ bột sò điệp phong hóa, đen từ tro lá tre và rơm nếp. Tranh được in úp ván với năm màu cơ bản.
Hồ sơ đề cử di sản văn hóa phi vật thể “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” của Việt Nam đáp ứng đầy đủ năm tiêu chí ghi danh Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO.
Theo hồ sơ, tranh dân gian Đông Hồ gắn bó mật thiết với các lễ tiết quan trọng của người Việt; quy trình làm tranh đòi hỏi đào tạo chuyên sâu, tích lũy kinh nghiệm lâu dài; các bản khắc gỗ được coi là báu vật gia truyền, lưu giữ và truyền nối qua nhiều thế hệ.
Tuy nhiên, UNESCO cũng chỉ rõ những yếu tố khiến di sản cần được đưa vào Danh sách bảo vệ khẩn cấp: hiện chỉ còn rất ít gia đình tiếp tục duy trì nghề; tri thức và kỹ năng chủ yếu được truyền dạy trong phạm vi gia đình hoặc qua hình thức kèm cặp trực tiếp; số lượng nghệ nhân lành nghề suy giảm mạnh; nhu cầu sử dụng tranh truyền thống giảm sút; lực lượng có tay nghề cao và tâm huyết truyền dạy ngày càng khan hiếm. Trên cơ sở đó, UNESCO khuyến nghị Việt Nam sớm xây dựng và triển khai kế hoạch bảo vệ phù hợp.
Giữ nghề tổ cho thế hệ mai sau
Dẫu trải qua nhiều thăng trầm, có lúc tưởng chừng không giữ được nghề tổ, những người thợ tài hoa làng tranh Đông Hồ vẫn tin tưởng nghề sẽ đến “hồi thái lai”. Hiện cả làng chỉ còn ba gia đình bền bỉ níu giữ nghề. Thế nhưng mỗi ngày, du khách vẫn đều đặn nghe vang tiếng đục đẽo, khắc ván in, nhịp điệu cần mẫn của người in tranh, người vẽ mẫu, người tô màu.
Tin vui nghề làm tranh Đông Hồ được ghi danh Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp đã tiếp thêm niềm tự hào, khơi dậy quyết tâm phục hồi và phát triển nghề truyền thống quý giá này. Trải qua 14 đời cha truyền con nối, Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Hữu Quả nhớ lại những năm chiến tranh và thời kỳ bao cấp, khi tranh Đông Hồ gần như bị lãng quên. Trong hoàn cảnh đó, ông vẫn lặng lẽ sưu tầm mẫu tranh cổ, tra cứu tư liệu Viễn Đông Bác cổ Pháp, phục chế tranh xưa của cha ông, đồng thời từng bước truyền nghề cho hai con trai. “Trời không phụ lòng người”, đến nay gia đình ông vẫn giữ được nghề; các con tiếp nối, quảng bá tranh và trưởng thành với tư cách nghệ nhân.
Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Hữu Quả chia sẻ: “Danh hiệu càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Với tôi, việc gìn giữ, bảo tồn nghề truyền thống là vô cùng quan trọng. Vì vậy, chúng tôi đầu tư nghiên cứu sâu các giá trị văn hóa xưa, từ chữ Hán trong tranh đến những tinh hoa mà cha ông kết tinh trong tranh Đông Hồ, để cộng đồng hiểu, trân trọng và cùng chung tay gìn giữ, phát triển nghề.”
Giữ nghề và truyền nghề cũng chính là thực hiện cam kết với các khuyến nghị quốc tế, trong đó đặt cộng đồng vào vị trí trung tâm của hoạt động bảo vệ di sản.
Việc UNESCO ghi danh Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp mang ý nghĩa sâu sắc đối với cộng đồng làng Đông Hồ. Sự ghi nhận này khẳng định giá trị lịch sử, nghệ thuật độc đáo của nghề, đồng thời tạo động lực để các nghệ nhân tiếp tục gìn giữ kỹ năng, bí quyết truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một.
Anh Gokul Raveendran Thekkoot, du khách Ấn Độ, bày tỏ: “Hôm nay tôi có nhiều trải nghiệm thú vị. Lần đầu đến Việt Nam, làng tranh Đông Hồ là điểm đến đầu tiên tôi lựa chọn. Tôi được pha mực, quét hồ, in tranh – những việc chưa từng làm. Tranh mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam; tôi rất thích và đã mua một bức làm quà tặng mẹ.”
Việc ghi danh còn góp phần nâng cao nhận thức xã hội về tầm quan trọng của di sản, khuyến khích sự quan tâm của thế hệ trẻ, thúc đẩy các hoạt động hỗ trợ bảo vệ từ tổ chức đến cộng đồng. Đồng thời, đây cũng là cơ hội quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới, nuôi dưỡng niềm tự hào dân tộc và gìn giữ sự đa dạng của bản sắc văn hóa Việt.
Sức sống của dòng tranh dân gian
Xưa ở miền Bắc có ba dòng tranh dân gian tiêu biểu được sản xuất hoàn toàn thủ công: tranh Đông Hồ, tranh đỏ Kim Hoàng và tranh Hàng Trống. Ở thời kỳ hưng thịnh, tranh Hàng Trống được bày bán khắp 36 phố phường Thăng Long như Hàng Bồ, Hàng Nón, Hàng Trống… Tuy nhiên, đến nay, người duy nhất còn nắm giữ trọn vẹn bí quyết của dòng tranh này là nghệ nhân Lê Đình Nghiên - người được xem là “giữ nghề cuối cùng” của tranh Hàng Trống. Trong căn nhà nhỏ trên phố Cửa Đông (Hà Nội), ông vẫn lặng lẽ vẽ tranh mỗi ngày.
Nghệ nhân Lê Đình Nghiên chia sẻ: “Tôi không có nghề nào khác nên gắn bó với nghề của các cụ để lại. Nghề có lúc thăng, lúc trầm nhưng tôi vẫn cố níu giữ, làm hết khả năng của mình. Giữ được tranh, được mọi người yêu mến, đó là động lực để tôi tiếp tục theo nghề.”
Tranh Hàng Trống chỉ sử dụng bản khắc nét bằng gỗ mềm, gỗ lồng mực hoặc gỗ thị; công đoạn vẽ màu được thực hiện sau khi in nét. Chỉ với sáu màu cơ bản, tranh tạo nên không gian vừa rực rỡ, tương phản, gần gũi mà vẫn toát lên vẻ uy nghiêm.
Sức hấp dẫn của tranh Hàng Trống nằm ở chiều sâu văn hóa, triết lý và ý nghĩa cầu phúc, cầu an. Sau thời gian mai một, dòng tranh này đang dần được giới trẻ quan tâm, lựa chọn trang trí trong quán cà phê, không gian sống gia đình. Đáng chú ý, nhu cầu sưu tầm, tìm hiểu văn hóa – tín ngưỡng của du khách nước ngoài được xem là tín hiệu tích cực cho quá trình hồi sinh dòng tranh nổi tiếng đất Kinh kỳ.
Bên cạnh tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống, tranh Kim Hoàng cũng từng là dòng tranh Tết nức tiếng xứ Kinh kỳ. Sau hơn bảy thập kỷ thất truyền, tranh Kim Hoàng chính thức được phục dựng từ đầu năm 2016 với những mẫu tranh cổ đầu tiên. Từ đó, tranh đỏ Kim Hoàng dần hồi sinh ngay tại quê hương, dưới bàn tay của nghệ nhân trẻ Đào Đình Chung - hiện là người duy nhất của làng Kim Hoàng gắn bó, gìn giữ dòng tranh Tết truyền thống này.
Nếu tranh Đông Hồ nổi bật với giấy điệp, tranh Hàng Trống sử dụng giấy dó thì tranh Kim Hoàng gây ấn tượng bởi sắc đỏ thắm trên nền giấy dó, vì thế còn được gọi là “tranh đỏ”. Đề tài tranh gắn liền với đời sống mộc mạc của người dân Bắc Bộ, như hình ảnh trâu, bò, lợn, gà và sinh hoạt thôn quê dân dã.
Trên hành trình hồi sinh các dòng tranh cổ, nhiều nghệ nhân đã mở lớp dạy vẽ miễn phí cho trẻ em, tổ chức hoạt động trải nghiệm, workshop, đồng thời kết hợp tranh dân gian với thiết kế hiện đại để phù hợp hơn với đời sống đương đại. Trong xã hội hiện đại, tranh dân gian Việt Nam đang bước vào hành trình mới - hành trình của bảo tồn gắn với sáng tạo. Sự quan tâm ngày càng lớn của cộng đồng, nhà trường và các dự án văn hóa là nền tảng quan trọng để các dòng tranh dân gian tiếp tục bền bỉ khẳng định giá trị trong đời sống văn hóa dân tộc.
Nguồn Hà Nội TV: https://hanoionline.vn/suc-song-cua-tranh-dan-gian-376574.htm











