Sức sống mới ở làng Rừng Xà nu
Vượt qua cung đèo Lò Xo ngoằn ngoèo như dải lụa uốn lượn giữa đại ngàn, tôi tìm về xã Xốp (huyện Đắk Glei, tỉnh Kon Tum cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi). Ở nơi ấy, bên dòng Đăk Nông hiền hòa, làng Xốp Dùi (làng Xô Man trong tác phẩm Rừng Xà nu của nhà văn Nguyên Ngọc) hiện ra đẹp như bức tranh sơn thủy.
Ít ai biết rằng, làng Xốp Dùi bình yên, ngập hương lúa mới hôm nay từng là “pháo đài” kiên cường, nơi đồng bào Ta Reh (nhánh của người Giẻ-Triêng), Xê Đăng theo Đảng, theo Bác Hồ, giữ làng, giữ nước trong những năm tháng khốc liệt chống Pháp, chống Mỹ.
Ngôi làng huyền thoại
Trong 2 cuộc kháng chiến, dưới sự dẫn dắt và lãnh đạo của Anh hùng LLVTND Đinh Môn (tức cụ A Mết, sinh năm 1913 - mất năm 2000), bao thế hệ trai gái Xốp Dùi đã lấy máu xương, hầm chông, gươm giáo… và ý chí sắt đá đánh “Kon Lơn - thằng Púk” (người dân gọi Pháp là vậy) để giữ lấy bản làng, giữ lấy non sông. Xốp Dùi đã trở thành “ngôi làng huyền thoại” trong truyện ngắn “Rừng Xà Nu” và bản thân anh hùng A Mết là nhân vật chính trong tác phẩm này.

Anh hùng Đinh Môn (cụ Mết)
Đặt chân đến Xốp Dùi hôm nay, tôi được anh A Gụe - Bí thư chi bộ thôn, chàng trai mới 32 tuổi, dẫn đi dạo quanh làng. Trên những con đường bê tông phảng phất mùi rạ thơm, A Gụe hồn nhiên khoe: “Trong rừng xà nu bây giờ có nhiều sâm Ngọc Linh lắm, bà con trồng đầy…”.
Tiếng cười của anh giòn như nắng sớm, nhưng trong từng câu chuyện, vẫn chất chứa những ký ức hào hùng năm xưa còn in dấu nơi này.
Trong căn nhà sàn cũ, bên bếp lửa xà nu đỏ rực, tôi gặp cụ A Nhóa, năm nay đã 87 tuổi, cựu du kích của đội quân năm nào do cụ A Mết chỉ huy. Đôi bàn tay gầy run run mở ra gói vải cũ, lộ ra thanh gươm cũ kĩ được giữ gìn mấy chục năm trời.
“Ngày ấy, tôi cầm gươm vừa đi rừng, vừa làm giao liên, vừa đánh giặc. Có khi đói quá, cả đội phải ăn củ rừng thay cơm, lấy tro thay muối. Nhưng ý chí thì không bao giờ gục ngã”, cụ Nhóa chậm rãi kể, ánh mắt sáng lên trong làn khói bếp mờ ảo.
Ký ức ùa về như gió rừng xà nu. Đó là những đêm trắng gài bẫy đá, bẫy chông; những ngày cả làng đào hầm, rào làng chống càn.
“Vũ khí thô sơ thôi, nhưng núi rừng che chở, lòng dân một dạ, nên súng đạn nào cũng không khuất phục nổi”, cụ A Nhóa nhấn mạnh, rồi chỉ về dãy rừng xà nu xa xa nơi hơn 80 năm trước, 100 thanh niên khỏe mạnh của Xốp Dùi, dưới sự chỉ huy của cụ Mết đã lập làng chiến đấu.

Thanh gươm, kỷ vật thời tham gia kháng chiến của cụ A Nhóa. Ảnh: Nguyễn Ngọc
Ký ức của bà Y Dĩa (73 tuổi, làng Xốp Dùi) cũng khiến người nghe lặng đi. Bà kể có những đêm cả làng giã gạo thâu đêm, gùi gạo, tải đạn nuôi bộ đội. “Giặc có súng, có bom. Mình chỉ có gùi, có gươm, có kiếm, có niềm tin với cách mạng.
Chính vì vậy mà Xốp Dùi đã trở thành “pháo đài”. Địch mua chuộc đủ cách, nhưng người dân vẫn không nao núng, khuất phục”, bà Y Dĩa xúc động nhớ lại.
Trong ký ức của bà, còn những câu chuyện kỳ lạ mà thiêng liêng. Ngày ấy, dân làng hưởng ứng phong trào Nước Xu ở Phú Yên, góp heo, dê, ché quý đi đổi lấy “nước linh”. Khi mang về, cả làng nhảy múa, lấy cành lá nhúng nước vẩy lên người, tin rằng đó là sức mạnh để đánh giặc, để trai gái tự do yêu nhau, cùng nhau làm rẫy, dựng làng.
“Anh em ơi, có nước của Yàng (thần linh) đây… Phải đánh giặc thôi, đánh giặc để cho con trai con gái yêu nhau, cùng nhau làm rẫy, cùng nhau cõng nước, cõng củi…”. Lời hát ấy, bà bảo, vẫn như còn vọng lại trên rừng xà nu xanh ngát, bạt ngàn.
Không chỉ vậy, trong ký ức tập thể của Xốp Dùi, còn có những chi tiết khiến người nghe phải rùng mình: mỗi khi giặc tràn vào, tiếng hú dài cất lên, lập tức cả làng vào vị trí.
Đến cả gia súc, gia cầm cũng như hiểu hiệu lệnh. Gà vịt chạy vào lồng, heo chạy theo lối mòn, cùng dân làng lên núi tản cư. Đó không chỉ là chiến thuật, mà là sự hòa quyện kỳ lạ giữa con người, núi rừng và muôn loài trong khát vọng sinh tồn, khát vọng giữ đất, giữ làng.
Ngày ấy, Xốp Dùi chỉ có hơn 200 nhân khẩu với 80 bếp lửa, vậy mà đã thành “phên dậu” sắt đá cho cả một vùng Tây Nguyên. Người dân nơi đây đã biến cả rừng xà nu thành chiến lũy, thành tường thành che chở cho Cách mạng, để rồi cái tên Xốp Dùi đi vào sử sách như một biểu tượng của lòng trung kiên.
Năm 1977, dân Xốp Dùi rời núi, dựng nhà bên dòng Đăk Nôn hiền hòa. Làng cũ giờ phủ xanh bởi rừng xà nu, nơi từng có hầm bí mật, bếp lửa kháng chiến, nơi từng chan hòa mồ hôi và máu của bao thế hệ. Với người Xốp Dùi, đó mãi là mảnh đất thiêng liêng, nơi lưu giữ kỷ niệm một thời máu lửa và khí phách anh hùng.
Từ “pháo đài” kháng chiến đến làng ấm no
Ngồi bên bếp lửa, lắng nghe câu chuyện của các nhân chứng sống, tôi thấy lịch sử không chỉ nằm trong những trang sách, mà vẫn sống động trong từng hơi thở của núi rừng, trong từng nếp nhăn trên gương mặt già làng, trong từng ánh mắt lấp lánh niềm tự hào của thế hệ trẻ hôm nay.
Xốp Dùi đã đi qua chiến tranh, đi qua đói nghèo, để nay ngập tràn tiếng cười, ruộng lúa vàng, vườn sâm Ngọc Linh xanh tốt.
Sau ngày đất nước thống nhất, người dân làng Xốp Dùi, những con người từng một lòng, một dạ giữ rừng, giữ núi, giữ nước lại tiếp tục đồng lòng dựng xây quê hương. Bao nhiêu năm gian khó đã lùi xa, làng kháng chiến năm nào giờ khoác tấm áo mới: màu xanh của cà phê, của mắc ca, xanh hơn cả là những nương sâm Ngọc Linh trải dài trên sườn núi.
Nếu như ngày xưa, cả làng từng cùng nhau vào rừng lập làng chiến đấu, thì hôm nay gần 800 nhân khẩu với 245 hộ dân lại cùng nhau vào rừng trồng sâm, gây dựng một hướng đi mới cho tương lai.

Làng Xốp Dùi (xã Xốp, tỉnh Quảng Ngãi) nhìn từ trên cao. Ảnh: Nguyễn Ngọc
A Đoan - trưởng thôn Xốp Dùi cười giòn khi khoe: “Khoảng 90% dân làng đều trồng dược liệu cả rồi. Thanh niên A Khem là người trồng nhiều nhất. Bắt đầu từ 200 gốc, nay đã hơn 1.000 gốc sâm Ngọc Linh. Năm ngoái, bán một luống, anh ấy thu về 200 triệu đồng”.
Câu chuyện của A Khem trở thành tấm gương để cả làng noi theo. Không giữ riêng cho mình, anh còn bán giống, truyền lại kỹ thuật cho bà con.
Bản thân thôn trưởng A Đoan cũng trồng vài trăm gốc sâm. Nhưng khi được hỏi ở đâu, ông chỉ cười lắc đầu: “Sợ trộm lắm”. Nụ cười hóm hỉnh ấy là minh chứng rõ ràng nhất cho sự đổi thay. Bởi ngày trước, người Xốp Dùi chỉ quen cõng gùi, chọc tỉa, sống dựa nương rẫy. Nay, bà con biết dùng máy cày, máy tuốt lúa, biết trồng lúa hai vụ, bán lúa cũ để ăn lúa mới. Cái nghèo từng bám riết làng giờ chỉ còn sót lại vài hộ. “Cả thôn giờ chỉ còn 7 hộ nghèo thôi”, anh A Đoan tự hào.
Những đồi cà phê xứ lạnh cũng bắt đầu xanh mướt, xen lẫn là những rẫy mắc ca thẳng tắp. Người dân được tập huấn kỹ thuật, mạnh dạn tái canh 15 ha cà phê mới. Trong sự thay đổi ấy, có dấu ấn thầm lặng của ông Trương Trọng Ngọc, người đàn ông 65 tuổi gắn bó cả đời với Xốp Dùi.
Ông trồng 4 - 5 ha cà phê, mắc ca, dược liệu; tạo việc làm, trả công cho bà con, lại tận tình truyền dạy cách làm vườn, cách chăm cây. Người dân trong làng gọi ông là “người gieo chữ xanh” cho đất Xốp Dùi.
Ông Lê Hải Lâm - Chủ tịch UBND xã Xốp (tỉnh Quảng Ngãi) cho biết, bà con đã biết xóa bỏ cách canh tác lạc hậu, chuyển đổi sang cây dược liệu, cà phê, mắc ca. Đây là hướng đi bền vững để nâng cao đời sống. Song song với phát triển kinh tế, xã cũng đang triển khai đề án phục dựng Di tích lịch sử Làng kháng chiến Xốp Dùi, gắn với bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch cộng đồng giai đoạn 2025 - 2030.
Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/suc-song-moi-o-lang-rung-xa-nu-post1773739.tpo