Tâm lý tích cực, nhiều doanh nghiệp Nhật Bản muốn mở rộng kinh doanh tại Việt Nam
Theo kết quả 'Khảo sát thực trạng của các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại nước ngoài năm 2024' (Ấn bản Việt Nam), được Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (Jetro) tại Hà Nội công bố chiều 21/1, có tới 56,1% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam có mong muốn mở rộng kinh doanh trong 1- 2 năm tới, đứng đầu khu vực ASEAN.
Khảo sát này được Jetro thực hiện thông qua bảng câu hỏi về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư tại 20 quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á, châu Đại Dương. Trong số 5.007 doanh nghiệp trả lời hợp lệ, có 863 doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư tại Việt Nam (nhiều nhất trong số các quốc gia, vùng lãnh thổ tại châu Á, châu Đại Dương).
Tỷ lệ doanh nghiệp có lãi cao
Phát biểu tại buổi họp báo, ông Haruhiko Ozasa - Trưởng đại diện Jetro tại Việt Nam đã thông tin về những điểm nổi bật của báo cáo năm nay.
Về triển vọng lợi nhuận kinh doanh, kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam kỳ vọng “có lãi” năm 2024 là 64,1%. Lần đầu tiên sau 5 năm kể từ năm 2019 trước đại dịch Covid-19, tỷ lệ này vượt trên mức 60% cho thấy tâm lý kinh doanh tích cực của các doanh nghiệp.
Các hạng mục khảo sát chính của Jetro bao gồm: triển vọng lợi nhuận kinh doanh; kế hoạch triển khai hoạt động kinh doanh trong tương lai; tình hình triển khai hoạt động kinh doanh những năm gần đây; hấp dẫn và khó khăn về môi trường đầu tư; cạnh tranh; quản lý chuỗi cung ứng; tình hình xuất nhập khẩu; tiền lương.
Tỷ lệ doanh nghiệp có lãi trong ngành chế tạo là 70,2% (tăng 8,7 điểm so với năm trước). Tỷ lệ doanh nghiệp báo lỗ là 17,4% (giảm 4,6 điểm so với năm trước). Ở hầu hết các ngành, tỷ lệ doanh nghiệp có lãi đều tăng so với năm trước. Tỷ lệ doanh nghiệp có lãi vượt trên mức 80%trong 4 nhóm ngành: linh kiện máy móc vận chuyển, thiết bị y tế/chính xác, các sản phẩm nhựa và hóa chất/dược phẩm.
Tỷ lệ doanh nghiệp có lãi trong ngành phi chế tạo là 57,9% (tăng 11,2 điểm so với năm trước). Tỷ lệ doanh nghiệp báo lỗ là 21,2% (giảm 5,8 điểm so với năm trước). Tỷ lệ doanh nghiệp có lãi trong các ngành thương mại/bán buôn, khai khoáng/năng lượng, dịch vụ liên quan đến kinhdoanh... tăng hơn 15 điểm so với năm trước. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp có lãi trong các ngành giáo dục/y tế và xây dựng tiếp tục duy trì dưới 50%.
Theo kết quả khảo sát, tại Việt Nam, 48,8% doanh nghiệp trả lời dự báo hoạt động kinh doanh năm 2024 của họ sẽ “cải thiện” so với năm 2023 (tăng 16,8 điểm so với năm trước) và tỷ lệ doanh nghiệp dự báo sẽ “xấu đi” là 16,9% (giảm 18,8 điểm so với năm trước).
Ông Haruhiko Ozasa cho biết, với 48,5%, mức tăng tỷ lệ doanh nghiệp dự báo “cải thiện” so với năm trước của Việt Nam đứng đầu trong khu vực ASEAN.
Về triển vọng lợi nhuận kinh doanh năm 2025, so với (kỳ vọng) năm 2024, có 50,4% doanh nghiệp dự báosẽ “cải thiện”. Nhiều doanh nghiệp tiếp tục kỳ vọng vào kết quả kinh doanh khả quan tiếp nối năm 2024.
Lý do cải thiện kỳ vọng lợi nhuận kinh doanh năm 2024 của ngành chế tạo chủ yếu là do “nhu cầu tại thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa tăng”.
Việt Nam dẫn đầu ASEAN về doanh nghiệp mong muốn mở rộng kinh doanh
Về kế hoạch triển khai hoạt động kinh doanh trong tương lai, kết quả khảo sát cho thấy, Việt Nam có tỷ lệ doanh nghiệp trả lời sẽ “mở rộng” kinh doanh trong 1-2 năm tới là 56,1%. Tuy con số này có giảm 0,6 điểm so với kết quả khảo sát năm trước, nhưng Việt Nam vẫn dẫn đầu các nước trong khu vực ASEAN.
Cụ thể, tỷ lệ doanh nghiệp trong ngành chế tạo trả lời sẽ “mở rộng” là 48,1% (tăng 1 điểm so với năm trước), ngành thiết bị điện/điện tử và ngành vận tải trả lời sẽ “mở rộng” tăng trên 20 điểm so với năm trước.
Các doanh nghiệp trong ngành chế tạo và ngành phi chế tạo đều đưa ra lý do mở rộng kinh doanh 1-2 năm tới là do “nhu cầu tại thị trường nội địa mở rộng”, “xuất khẩu tăng”.
Chia sẻ đánh giá về môi trường kinh doanh, trưởng đại diện Jetro tại Việt Nam cho biết, sức hấp dẫn của môi trường kinh doanh Việt Nam được các doanh nghiệp Nhật Bản đánh giá tốt, thể hiện qua 3 lợi thế chính là quy mô thị trường/tiềm năng tăng trưởng; tình hình chính trị, xã hội ổn định và chi phí nhân công rẻ.
Theo khảo sát, cả 3 lợi thế này Việt Nam đều có chỉ số cao hơn mức trung bình của ASEAN. Ngoài ra còn có là các lợi thế khác được các doanh nghiệp đánh giá cao so với khu vực như: môi trường sống ưu ái dành cho chuyên gia nước ngoài, dễ dàng tuyển dụng nhân sự và lao động theo yêu cầu của doanh nghiệp, chất lượng lao động cao…
Tuy nhiên, những rủi ro hàng đầu trong môi trường đầu tư nói chung bao gồm thủ tục hành chính phức tạp (như xin giấy phép), cũng như hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và việc thực thi thiếu minh bạch thì mặc dù tỷ lệ trả lời tại các quốc gia khác trong khối ASEAN đã giảm, nhưng tại Việt Nam điểm số vẫn duy trì như cũ, không có sự thay đổi.
Theo trưởng đại diện Jetro tại Việt Nam, đây là những điều mà Việt Nam cần lưu tâm cải thiện trong thời gian tới, để giữ chân các nhà đầu tư và thu hút thêm nhiều nhà đầu tư mới.
“Tỷ lệ doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam mở rộng đầu tư dù giảm nhưng vẫn cao nhất trong các nước ASEAN. Đây là minh chứng cho thấy môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam vẫn tiếp tục là điểm đến hấp dẫn với các doanh nghiệp Nhật Bản trong khu vực” - ông Haruhiko Ozasa nhấn mạnh.
Doanh nghiệp nỗ lực giảm phát thải carbon
Kết quả khảo sát cho thấy, hiện có 32,0% doanh nghiệp đang thực hiện các nỗ lực giảm phát thải carbon (giảm khí nhà kính), giảm 2,4 điểm so với năm trước. Đối với ngành chế tạo, có hơn 50% doanh nghiệp trong các lĩnh vực như thiết bị vận tải và linh kiện của chúng, cao su/gốm sứ/đất đá, thiết bị y tế/chính xác đang thực hiện các nỗ lực này. Đối với ngành phi chế tạo, doanh nghiệp trong các lĩnh vực như khai khoáng/năng lượng và tài chính/bảo hiểm cũng ghi nhận tỷ lệ thực hiện tương tự.