Tăng hạng đại học không chỉ là cuộc đua về con số mà là hành trình về chất lượng
Việc nâng thứ hạng trên trường quốc tế là thách thức lớn đối với nhiều CSGDĐH do sự khác biệt về tiêu chí xếp hạng, hạn chế kinh phí và nguồn lực dành cho NCKH.
Nghị quyết 51 ban hành chương trình hành động của Chính phủ nhằm thực hiện Kết luận 91-KL/TW của Bộ Chính trị, tiếp tục triển khai Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nghị quyết nhấn mạnh việc hoàn thiện chính sách để thúc đẩy liên kết với các cơ sở giáo dục tiên tiến quốc tế, thu hút sinh viên nước ngoài, thành lập phân hiệu đại học nước ngoài tại Việt Nam và xây dựng trung tâm kết nối tri thức, hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa giáo dục đang diễn ra mạnh mẽ, các bảng xếp hạng đại học quốc tế đang ngày càng trở thành một công cụ tham chiếu quan trọng, không chỉ giúp các trường khẳng định uy tín học thuật mà còn là căn cứ để thu hút người học, giảng viên và đối tác hợp tác quốc tế.
Tại Việt Nam, dù chưa phải là tiêu chí bắt buộc trong quản trị đại học, nhưng việc có mặt trên các bảng xếp hạng danh tiếng được nhiều cơ sở giáo dục đại học quan tâm, tham gia như một bước đi chiến lược để nâng tầm vị thế trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, con đường cải thiện thứ hạng không đơn giản.
Muốn tăng thứ hạng, đòi hỏi sự đầu tư bài bản
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Cao Tấn Huy - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tài chính - Marketing cho biết, hiện nay, nhiều cơ sở giáo dục đại học đang ngày càng quan tâm đến việc cải thiện thứ hạng trên các bảng xếp hạng quốc tế. Đây không chỉ là xu hướng tất yếu trong bối cảnh giáo dục ngày càng hội nhập, mà còn là chiến lược quan trọng giúp khẳng định uy tín, nâng cao hình ảnh và vị thế của nhà trường trên bản đồ giáo dục khu vực và toàn cầu.
Theo Tiến sĩ Cao Tấn Huy, việc đạt được thứ hạng cao mang lại nhiều lợi ích thiết thực, từ việc thu hút sinh viên giỏi trong và ngoài nước, đến mở rộng hợp tác quốc tế, tuyển dụng đội ngũ giảng viên chất lượng cao, đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận các nguồn đầu tư từ doanh nghiệp, Chính phủ và các tổ chức quốc tế khác. Những yếu tố này đều góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của các cơ sở giáo dục đại học.

Tiến sĩ Cao Tấn Huy - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tài chính - Marketing. (Ảnh: NVCC)
Tuy nhiên, việc cải thiện thứ hạng trên các bảng xếp hạng quốc tế không phải là nhiệm vụ dễ dàng đối với nhiều trường đại học tại Việt Nam. Một trong những trở ngại lớn là sự khác biệt trong hệ thống tiêu chí đánh giá giữa các bảng xếp hạng, cùng với đó là hạn chế về kinh phí và nguồn lực dành cho nghiên cứu khoa học. Đây đều là những yếu tố then chốt trong quá trình thăng hạng.
“Trên thực tế, hiện nay có một số bảng xếp hạng đại học quốc tế uy tín và phổ biến như QS World University Rankings, Times Higher Education (THE) hay Academic Ranking of World Universities (ARWU). Mỗi bảng xếp hạng này đều sử dụng một bộ tiêu chí riêng biệt để đánh giá chất lượng và uy tín của các cơ sở giáo dục đại học.
Cụ thể, bảng xếp hạng QS đánh giá dựa trên các yếu tố như danh tiếng học thuật, mức độ đánh giá từ nhà tuyển dụng, tỷ lệ giảng viên/sinh viên, số lượng trích dẫn khoa học và mức độ quốc tế hóa trong đội ngũ giảng viên và sinh viên.
Trong khi đó, bảng xếp hạng THE lại đặt trọng tâm vào chất lượng nghiên cứu khoa học, môi trường giảng dạy, thu nhập từ chuyển giao tri thức và hợp tác quốc tế.
Riêng bảng xếp hạng ARWU chú trọng vào thành tích nghiên cứu đỉnh cao như số lượng bài báo công bố trên các tạp chí khoa học hàng đầu, cũng như số lượng giảng viên và cựu sinh viên từng nhận giải Nobel hoặc Huy chương Fields.
Chính sự khác biệt trong bộ tiêu chí giữa các bảng xếp hạng khiến các trường đại học không thể áp dụng một công thức chung cho việc cải thiện thứ hạng. Thay vào đó, mỗi cơ sở giáo dục cần xây dựng chiến lược phù hợp với định hướng phát triển, năng lực nội tại và thế mạnh riêng của mình”, Tiến sĩ Cao Tấn Huy cho hay.
Từ thực tế ấy, vấn đề đặt ra là một trường đại học muốn cải thiện thứ hạng cần xác định rõ bảng xếp hạng nào thực sự phù hợp với mục tiêu phát triển và ưu tiên chiến lược.
Theo Tiến sĩ Cao Tấn Huy, nếu một trường có thế mạnh về chất lượng giảng dạy nhưng chưa có nhiều công bố khoa học quốc tế, thì việc nhắm đến các bảng xếp hạng như THE hay ARWU vốn đánh giá cao thành tích nghiên cứu sẽ khó mang lại kết quả khả quan trong ngắn hạn. Ngược lại, những bảng xếp hạng như QS, với trọng số lớn dành cho danh tiếng học thuật và sự quốc tế hóa, có thể phù hợp hơn nếu nhà trường đang tập trung vào xây dựng hình ảnh và mở rộng hợp tác toàn cầu.

Ảnh minh họa: Mộc Trà
Bên cạnh sự khác biệt về tiêu chí xếp hạng, một trong những rào cản lớn khiến nhiều trường đại học Việt Nam gặp khó khăn trong quá trình cải thiện thứ hạng là vấn đề kinh phí và nguồn lực dành cho nghiên cứu khoa học.
Hầu hết các bảng xếp hạng uy tín trên thế giới đều dành trọng số cao cho tiêu chí liên quan đến số lượng và chất lượng công bố quốc tế, đặc biệt là các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí quốc tế thuộc danh mục Scopus hay Web of Science (WoS).
Tuy nhiên, để có được những công trình nghiên cứu chất lượng cao không thể chỉ dựa vào nỗ lực cá nhân của giảng viên mà cần một hệ sinh thái nghiên cứu được đầu tư bài bản và lâu dài.
“Trước hết là nguồn kinh phí dành cho nghiên cứu bao gồm chi phí thiết bị, vật tư, thí nghiệm, khảo sát thực tế,... thường khá lớn, vượt quá khả năng tự chủ tài chính của nhiều trường.
Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũ giảng viên và nhà nghiên cứu đóng vai trò then chốt. Để xây dựng một lực lượng nghiên cứu mạnh, các trường cần thu hút và giữ chân được các nhà khoa học có trình độ cao, điều mà chỉ có thể thực hiện nếu có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, môi trường làm việc hiện đại và cơ hội phát triển nghề nghiệp rõ ràng.
Ngoài ra, hợp tác nghiên cứu quốc tế cũng là yếu tố không thể thiếu nếu muốn nâng cao chất lượng công bố và mở rộng ảnh hưởng học thuật. Tuy nhiên, việc hợp tác với các nhà khoa học từ các nước phát triển, những nơi có nền tảng nghiên cứu mạnh đòi hỏi chi phí lớn cho các hoạt động như tổ chức hội thảo, trao đổi học thuật, thực tập hoặc làm việc tại các phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế.
Tóm lại, việc cải thiện thứ hạng trên các bảng xếp hạng quốc tế không chỉ đơn thuần là nâng cao chất lượng giảng dạy hay tăng số lượng bài báo khoa học mà là một bài toán tổng thể, đòi hỏi chiến lược dài hạn, sự đầu tư có chiều sâu vào nghiên cứu và quản trị đại học, cũng như khả năng tối ưu hóa nguồn lực theo định hướng mà từng bảng xếp hạng đề ra”, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tài chính - Marketing nhận định.

Sinh viên học tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Tài chính - Marketing. (Ảnh: UFM)
Theo Tiến sĩ Cao Tấn Huy, Trường Đại học Tài chính - Marketing với đặc thù là một trường đại học công lập tự chủ tài chính và nguồn ngân sách còn hạn chế, đồng thời định hướng đào tạo theo hướng ứng dụng, việc lựa chọn bảng xếp hạng phù hợp với năng lực và mục tiêu phát triển là yếu tố then chốt.
Trong bối cảnh đó, nhà trường xác định việc tập trung vào một số tiêu chí có thể cải thiện hiệu quả ngắn hạn là hướng đi khả thi. Cụ thể, các tiêu chí như danh tiếng với nhà tuyển dụng; tỷ lệ sinh viên, giảng viên; chất lượng môi trường giảng dạy và số lượng trích dẫn nghiên cứu khoa học được xem là những ưu tiên hàng đầu. Đây là những yếu tố không chỉ phản ánh đúng thế mạnh hiện tại của trường mà còn có khả năng tạo ra tác động tích cực đến uy tín và vị thế của nhà trường trên các bảng xếp hạng quốc tế nếu được đầu tư đúng hướng.
Theo Chiến lược phát triển giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn đến năm 2045, Trường Đại học Tài chính - Marketing đặt mục tiêu đến năm 2045 sẽ nằm trong top 500 trường đại học có chất lượng hàng đầu thế giới theo bảng xếp hạng QS (Quacquarelli Symonds). Đồng thời, trường cũng hướng đến trở thành cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng hàng đầu tại Việt Nam.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, nhà trường đã xây dựng kế hoạch tổng thể, triển khai đồng bộ trên nhiều lĩnh vực trọng yếu. Trong đó bao gồm: phát triển chương trình đào tạo gắn với thực tiễn và nhu cầu thị trường lao động; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học có chất lượng, hướng đến công bố quốc tế; nâng cấp cơ sở vật chất hiện đại, phục vụ tốt hoạt động giảng dạy và học tập; đồng thời tập trung phát triển đội ngũ giảng viên và nguồn lực tài chính, đảm bảo đủ năng lực thực hiện các mục tiêu chiến lược đã đề ra.
Hướng tới mục tiêu bền vững và thực chất
Bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh nhận định, việc tham gia vào các bảng xếp hạng quốc tế không thể theo một công thức chung, mà đòi hỏi sự lựa chọn có chiến lược, phù hợp với năng lực và mục tiêu của từng cơ sở giáo dục.
Trong bối cảnh giáo dục đại học ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, việc nâng cao thứ hạng trên các bảng xếp hạng quốc tế đang trở thành một yếu tố quan trọng, góp phần khẳng định vị thế, uy tín và chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy vẫn còn không ít trường đại học trong nước chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề này.
Mỗi bảng xếp hạng quốc tế đều có bộ tiêu chí, thước đo riêng, phản ánh những khía cạnh khác nhau của hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao tri thức. Trong khi đó, điều kiện về kinh phí, nguồn lực con người, trình độ công nghệ và định hướng phát triển của từng trường lại rất khác nhau.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: Website nhà trường)
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn, một trong những thách thức lớn nhất đối với các trường đại học khi tham gia vào các bảng xếp hạng quốc tế chính là vấn đề công bố quốc tế. Đây là tiêu chí trọng yếu trong hầu hết các hệ thống đánh giá, thể hiện năng lực nghiên cứu, khả năng sáng tạo và mức độ đóng góp vào tri thức toàn cầu của một cơ sở giáo dục.
Các bài báo khoa học được công bố trên những tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục Scopus hoặc Web of Science (WoS) là minh chứng rõ nét cho chất lượng nghiên cứu và tầm ảnh hưởng học thuật của nhà trường. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, các cơ sở giáo dục không nên rơi vào tình trạng “chạy theo thành tích”, đặt nặng số lượng bài báo mà xem nhẹ chất lượng và đạo đức học thuật.
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả thực chất của các hoạt động nghiên cứu, mà còn gây tổn hại lâu dài đến uy tín và hình ảnh của cơ sở giáo dục.
“Việc tăng hạng là điều ai cũng mong muốn nhưng sản phẩm khoa học phải xuất phát từ năng lực thực chất của đội ngũ giảng viên, nhà nghiên cứu. Tuyệt đối không có chuyện chạy theo số lượng, không vì thành tích mà đánh đổi chất lượng”, Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định.
Để nâng cao tính cạnh tranh và hội nhập với các mô hình giáo dục tiên tiến trên thế giới, Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang triển khai các chiến lược cụ thể.
Thứ nhất là tăng cường cử giảng viên đi đào tạo, tập huấn ở nước ngoài nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và tiếp cận phương pháp giảng dạy hiện đại. Những giảng viên này sau khi trở về sẽ là lực lượng nòng cốt trong việc triển khai các chương trình liên kết quốc tế.
Thứ hai, nhà trường lựa chọn “nhập khẩu” chương trình đào tạo từ các trường đại học uy tín ở nước ngoài, qua đó giúp sinh viên được học tập trong môi trường hiện đại, cập nhật với xu hướng toàn cầu. Điều này không chỉ rút ngắn khoảng cách chất lượng đào tạo giữa các trường trong nước với quốc tế, mà còn mở ra cơ hội để sinh viên tham gia thị trường lao động toàn cầu.
Thứ ba là chiến lược tuyển dụng và sử dụng giảng viên nước ngoài trong giảng dạy. Mặc dù giải pháp này đòi hỏi chi phí lớn nhưng lại mang đến hiệu quả nhanh chóng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, đồng thời góp phần tạo nên môi trường học thuật đa văn hóa.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn, tăng thứ hạng đại học không chỉ là cuộc chạy đua về con số mà phải là hành trình nâng cao chất lượng thực chất và bền vững. Để làm được điều đó, các cơ sở giáo dục đại học cần xây dựng chiến lược dài hạn, đầu tư đúng trọng tâm và đề cao giá trị học thuật, đạo đức nghề nghiệp. Chỉ khi nền tảng chất lượng được củng cố vững chắc, việc hội nhập và khẳng định vị thế trên bản đồ giáo dục quốc tế mới thực sự hiệu quả và có ý nghĩa.
Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Long - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng, thứ hạng của một trường đại học trên bảng xếp hạng quốc tế chính là minh chứng cho những nỗ lực không ngừng trong việc đổi mới chương trình đào tạo, tăng cường hợp tác và đẩy mạnh hội nhập toàn cầu.
Việc cải thiện thứ hạng không chỉ góp phần khẳng định vị thế và uy tín của nhà trường trong hệ thống giáo dục đại học trong nước và quốc tế, mà còn mở ra nhiều cơ hội thu hút nguồn lực toàn diện từ sinh viên, tình nguyện viên, chuyên gia, giảng viên quốc tế đến học tập, giảng dạy và nghiên cứu tại trường; cho đến các nguồn đầu tư từ các đối tác trong và ngoài nước trong lĩnh vực khoa học công nghệ, chuyển giao tri thức và xây dựng mạng lưới học thuật quốc tế.
Đặc biệt, thứ hạng cao còn góp phần nâng cao chất lượng và số lượng nguồn tuyển sinh ở cả bậc đại học và sau đại học; đồng thời tạo tiền đề để phát triển các dự án hợp tác quốc tế về đào tạo và nghiên cứu với các trường đại học có uy tín hàng đầu trên thế giới.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Long - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng. (Ảnh: Website nhà trường)
Ngoài ra, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Long cho biết, mặc dù Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng rất chú trọng đến công tác xếp hạng, song với tư cách là một cơ sở giáo dục thành viên của Đại học Đà Nẵng, việc tham gia vào các bảng xếp hạng quốc tế được thực hiện theo định hướng chiến lược chung của toàn đại học vùng.
Trong thời gian tới, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng tập trung xây dựng môi trường, cơ chế và chính sách phù hợp nhằm thu hút nguồn lực phục vụ phát triển thông qua hoạt động hợp tác quốc tế.
Nhà trường chú trọng mở rộng hợp tác chiến lược, đa dạng hóa quan hệ với các đối tác trên toàn cầu; đồng thời tạo điều kiện để thu hút giảng viên, chuyên gia nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy, nghiên cứu, trao đổi học thuật.
Việc tăng cường kết nối thông qua đội ngũ cán bộ, giảng viên từng được đào tạo ở nước ngoài cũng được xác định là một kênh quan trọng để mở rộng hợp tác. Song song đó, trường tích cực quảng bá hình ảnh với các đối tác quốc tế, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của Đại học Đà Nẵng nói chung và Trường Đại học Ngoại ngữ nói riêng trong khu vực và thế giới.
Đồng thời, nhà trường cũng tăng cường quan hệ với các trường đại học và tổ chức quốc tế để tìm kiếm nguồn học bổng cho giảng viên, sinh viên; thu hút giảng viên, tình nguyện viên nước ngoài đến giảng dạy.
Việc liên kết đào tạo với các trường đại học uy tín trong nước và quốc tế (qua các mô hình như 2+2, 3+1, công nhận tín chỉ, trao đổi sinh viên) được đẩy mạnh. Trường hướng tới việc tất cả các khoa đều có ít nhất một chương trình, dự án hợp tác quốc tế; thực hiện hiệu quả các thỏa thuận đã ký kết; tích cực tham gia các dự án tài trợ phát triển cơ sở vật chất, chương trình đào tạo và nguồn nhân lực.