Tạo không gian nông nghiệp trong lòng đô thị

Thành phố Hà Nội có nhiều dự địa để phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp xanh và nông nghiệp đô thị. Định hướng này đang được cụ thể hóa bằng hành lang pháp lý mới và hệ thống chính sách vừa được HĐND thành phố Hà Nội thông qua.

Thành phố Hà Nội có nhiều dư địa để phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Ảnh: Internet

Thành phố Hà Nội có nhiều dư địa để phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Ảnh: Internet

Hiện nay, thành phố Hà Nội đứng trước bài toán kép là vừa phát triển hạ tầng đô thị hiện đại, vừa phải gìn giữ môi trường sống, không gian sinh thái và bản sắc nông thôn ven đô. Để đạt được mục tiêu đó, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Tạ Văn Tường cho rằng, thành phố nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp đô thị không chỉ là một hướng phát triển kinh tế, mà còn là “trụ cột xanh” để Hà Nội phát triển bền vững. Định hướng này đang được cụ thể hóa bằng hành lang pháp lý mới và hệ thống chính sách vừa được HĐND thành phố Hà Nội thông qua chiều 26-11.

Dư địa phát triển nông nghiệp lớn

- Tại nhiều hội nghị, ông nhấn mạnh “không thể có đô thị xanh, nếu thiếu không gian nông nghiệp”. Vậy, thành phố Hà Nội hiện thực hóa điều đó bằng những giải pháp nào?

- Nếu trong quá khứ, nông nghiệp thường bị đẩy lùi ra xa khỏi không gian đô thị thì hiện nay, tư duy phát triển đã thay đổi căn bản. Thành phố Hà Nội không chỉ phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung ở ngoại thành, mà còn xác định rõ vai trò của nông nghiệp ngay trong nội đô. Đó là các công viên nông nghiệp, các vành đai xanh, các mô hình trồng trọt gắn với không gian sinh hoạt cộng đồng.

Về mặt chiến lược, thành phố đang rà soát, xác định rõ các vùng đất nông nghiệp cần bảo vệ nghiêm ngặt để làm “phần lõi xanh” cho đô thị. Những khu vực này không chỉ sản xuất nông nghiệp, mà còn tích hợp đa giá trị: Cảnh quan, môi trường, du lịch sinh thái, giáo dục trải nghiệm. Đây chính là cách Hà Nội giữ lại “hơi thở nông nghiệp” trong một đô thị hiện đại.

Ở tầm vi mô, chúng tôi khuyến khích phát triển nông nghiệp đô thị quy mô nhỏ ngay trong từng khu dân cư, từng khu tập thể, từng trường học hay trên sân thượng, ban công. Khi người dân trong các khu đô thị trực tiếp tham gia trồng trọt, chăm sóc cây xanh, họ không chỉ có thêm sản phẩm sạch cho bữa ăn, mà còn hình thành lối sống xanh, lối sống trách nhiệm với môi trường.

Ông Tạ Văn Tường, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội. Ảnh: Trung Hiếu

Ông Tạ Văn Tường, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội. Ảnh: Trung Hiếu

- Như ông nói, việc phát triển mô hình trồng trọt trên sân thượng, ban công liệu có thực sự khả thi trong điều kiện đô thị chật hẹp?

- Thoạt nhìn, nhiều người nghĩ đây chỉ là mô hình mang tính phong trào, khó nhân rộng. Song, nếu tiếp cận theo hướng bài bản thì đây lại là một dư địa rất lớn. Hiện nay, diện tích sân thượng, mái nhà tại Hà Nội là con số không hề nhỏ. Nếu biết khai thác hợp lý, đây sẽ là nguồn không gian xanh bổ sung vô cùng quan trọng.

Về kỹ thuật, hiện nay việc xử lý chống thấm, kết cấu nhẹ, giá thể trồng cây, hệ thống tưới tiết kiệm nước… đã rất phổ biến. Người dân hoàn toàn có thể trồng rau, hoa, cây gia vị, thậm chí là những loại cây ăn quả nhỏ. Khi đó, toàn bộ rác thải hữu cơ trong gia đình được xử lý thành phân bón - đó chính là mô hình kinh tế tuần hoàn thu nhỏ trong từng hộ dân.

Về lâu dài, khi những mô hình này được chuẩn hóa, thành phố hoàn toàn có thể đưa ra các chính sách khuyến khích, hỗ trợ kỹ thuật, kết nối tiêu thụ sản phẩm nhỏ lẻ mang tính cộng đồng. Khi đó, nông nghiệp không còn là câu chuyện của riêng vùng ngoại thành, mà trở thành một phần trong đời sống đô thị.

- Vậy, các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung sẽ được tổ chức theo định hướng nào, thưa ông?

- Các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung phải được tổ chức theo tư duy kinh tế nông nghiệp hiện đại, không thể tiếp tục theo kiểu manh mún, tự phát. Trước hết, cấp xã, phường có trách nhiệm xây dựng phương án phát triển tổng thể cho từng vùng: Trồng cây gì, quy mô bao nhiêu, gắn với chế biến, tiêu thụ và du lịch ra sao. Doanh nghiệp và hợp tác xã đóng vai trò “đầu tàu” trong việc tổ chức sản xuất theo chuỗi. Người dân muốn tham gia sản xuất không thể làm riêng lẻ mà cần liên kết thông qua hợp tác xã hoặc liên kết với doanh nghiệp. Khi có chuỗi liên kết, rủi ro thị trường sẽ giảm đi rất nhiều.

Mục tiêu cuối cùng của các vùng sản xuất tập trung không chỉ là năng suất cao, mà còn phải đạt giá trị cao về môi trường, cảnh quan, kinh tế và xã hội. Đó phải là những vùng nông nghiệp “đa giá trị”, vừa sản xuất, vừa là không gian sinh thái, không gian trải nghiệm cho người dân đô thị.

Đòn bẩy” cho nông nghiệp Thủ đô

Trồng rau ứng dụng công nghệ cao ở Hà Nội. Ảnh: Internet

Trồng rau ứng dụng công nghệ cao ở Hà Nội. Ảnh: Internet

- Chiều 26-11 vừa qua, HĐND thành phố Hà Nội đã thông qua nghị quyết về một số chính sách phát triển nông nghiệp. Ông đánh giá thế nào về nghị quyết này?

- Tôi cho rằng, đây là nghị quyết có ý nghĩa rất lớn, mang tính “mở đường” cho giai đoạn phát triển mới của nông nghiệp Thủ đô. Điều quan trọng nhất là nghị quyết đã tiếp cận nông nghiệp theo tư duy chuỗi giá trị, chứ không chỉ hỗ trợ từng khâu đơn lẻ như trước đây.

Nghị quyết xác định rõ việc hỗ trợ từ sản xuất, chế biến, bảo quản đến tiêu thụ sản phẩm. Đối tượng thụ hưởng được mở rộng cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình và cá nhân. Điều này tạo ra một “hệ sinh thái chính sách” cho nông nghiệp, giúp các chủ thể yên tâm đầu tư dài hạn. Ở góc độ quản lý nhà nước, nghị quyết cũng là cơ sở để các ngành, các cấp phối hợp chặt chẽ hơn trong tổ chức thực hiện. Nông nghiệp không còn là việc riêng của ngành nông nghiệp, mà là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị.

- Theo ông, các chính sách mới sẽ tác động trực tiếp như thế nào đến doanh nghiệp, hợp tác xã và người nông dân?

Mô hình nông nghiệp công nghệ cao ngày càng được nhiều cá nhân triển khai. Ảnh: Hương Giang

Mô hình nông nghiệp công nghệ cao ngày càng được nhiều cá nhân triển khai. Ảnh: Hương Giang

- Điểm mới rất rõ là chính sách không chỉ “rót vốn”, mà còn hỗ trợ toàn diện về kỹ thuật, hạ tầng, công nghệ, xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại. Doanh nghiệp có điều kiện đầu tư mạnh vào chế biến sâu, bảo quản sau thu hoạch - khâu lâu nay vẫn là “điểm yếu” của nông nghiệp. Đối với hợp tác xã, chính sách mới sẽ giúp nâng cao năng lực quản trị, tiếp cận vốn, tiếp cận công nghệ và thị trường. Khi hợp tác xã mạnh lên, họ sẽ là “cầu nối” rất quan trọng giữa doanh nghiệp và người nông dân.

- Nghị quyết mới có hỗ trợ cho các làng nghề, ngành nghề nông thôn truyền thống hay không, thưa ông?

- Với nông dân, điều quan trọng nhất là họ không còn đơn độc. Từ khâu sản xuất đến tiêu thụ đều có sự hỗ trợ của Nhà nước, doanh nghiệp và hợp tác xã. Khi đầu ra được bảo đảm, người dân sẽ mạnh dạn đầu tư, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng giá trị cao. Thành phố Hà Nội là địa phương có số lượng làng nghề rất lớn, nhiều làng nghề gắn chặt với nông nghiệp như trồng hoa, cây cảnh, chế biến nông sản, thực phẩm truyền thống. Nếu không có chính sách phù hợp, các làng nghề rất dễ bị mai một trong quá trình đô thị hóa.

Mô hình trồng rau trên sân thượng của một hộ dân ở nội thành Hà Nội. Ảnh: Internet

Mô hình trồng rau trên sân thượng của một hộ dân ở nội thành Hà Nội. Ảnh: Internet

Chính sách mới không chỉ dừng ở việc bảo tồn mà còn hướng tới phát triển. Thành phố hỗ trợ cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Khi làng nghề “sống được bằng nghề”, người dân sẽ gắn bó với nông nghiệp một cách bền vững hơn. Quan trọng hơn, phát triển làng nghề gắn với du lịch nông thôn, du lịch sinh thái sẽ tạo ra không gian kinh tế mới cho khu vực ngoại thành, giảm áp lực di cư lao động vào khu vực trung tâm.

- Theo ông, các chính sách này sẽ tác động thế nào đến việc thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp của người dân Hà Nội?

- Tác động lớn nhất chính là sự thay đổi về tư duy. Người dân sẽ từng bước chuyển từ tư duy “sản xuất để bán” sang tư duy “làm kinh tế nông nghiệp”. Khi tham gia chuỗi giá trị, họ phải quan tâm đến tiêu chuẩn chất lượng, truy xuất nguồn gốc, thương hiệu, thị trường. Nông nghiệp sẽ không còn là sinh kế tạm thời, mà trở thành nghề nghiệp bền vững. Người trẻ sẽ có thêm động lực quay về với nông thôn, với nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái.

Về lâu dài, khi tư duy thay đổi, thành phố sẽ hình thành được lực lượng “doanh nhân nông nghiệp”, những người làm nông nghiệp bằng tri thức, công nghệ và tầm nhìn thị trường. Đó mới là nền tảng vững chắc cho phát triển nông nghiệp Thủ đô trong kỷ nguyên đô thị hóa.

Đức Duy

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/tao-khong-gian-nong-nghiep-trong-long-do-thi-725652.html