Thăm lăng Thủy Tổ, du xuân bên dòng Thiên Đức

Hòa vào dòng người trẩy hội mùa xuân, chúng tôi về miền quan họ, đến với một vùng bờ bãi bên mạn Nam sông Thiên Đức cổ xưa, tức sông Đuống ngày nay để thăm và dâng nén nhang trầm tưởng nhớ Đức Thủy Tổ huyền thoại của cộng đồng người Bách Việt: Kinh Dương Vương (ông nội vua Hùng) và ngược dòng sông nghiêng nghiêng đôi bờ cát trắng, du xuân trên những miền đất huyền thoại của xứ sở Kinh Bắc biêng biếc ngàn dâu một thời.

Lăng Thủy Tổ nước Nam - Kinh Dương Vương

Lăng Thủy Tổ nước Nam - Kinh Dương Vương

Ngược dòng lịch sử theo dòng huyền thoại tìm về nguồn cội

Ngược dòng thời gian, theo truyền thuyết và các sắc phong trong đền thờ Kinh Dương Vương (thôn Ái Lữ, xã Đại Đồng Thành, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), chúng ta được biết Kinh Dương Vương là cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông.

Viêm Đế là con của Thần Nông, là cha của Đế Minh. Đế Minh sinh con đầu là Đế Nghi. Và rồi trong một lần đi tuần tra ở phương Nam, khi đến vùng đất Ngũ Lĩnh, Đế Minh đã lấy Vụ Tiên thần nữ và sinh ra Lộc Tục (tức Kinh Dương Vương). Đế Minh thấy Lộc Tục là bậc thánh trí, có tư chất thông minh, có sức khỏe phi thường, tài đức hơn người nên có ý định truyền ngôi báu cho. Nhưng Lộc Tục là người hiếu thảo, biết trên biết dưới, không muốn giành ngôi của anh trai nên không chịu nhận. Biết vậy, Đế Minh chia đất nước làm hai phần lấy sông Dương Tử làm giới tuyến, phía Bắc giao cho Đế Nghi còn phía Nam giao cho Lộc Tục.

Theo đó, Lộc Tục đã lập nên nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất (2879 trước Công nguyên) và xưng là Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ (tên một vì sao đỏ rực, sáng nhất trong hai tám vì sao trên bầu trời, ở phía Nam của dải Ngân Hà). Nước Xích Quỷ bấy giờ là một vùng rộng lớn, phía Bắc giáp hồ Động Đình (cạnh sông Dương Tử), phía Nam giáp Hồ Tôn (nước Chiêm Thành, nay là tỉnh Quảng Nam), phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc), phía Đông giáp biển Nam Hải (Biển Đông). Kinh Dương Vương đã chọn vùng núi Ngàn Hống (núi Hồng Lĩnh, ở Can Lộc, Hà Tĩnh) để làm kinh đô.

Sau đó Kinh Dương Vương lấy Thần Long, con gái Động Đình Quân (vua hồ Động Đình) và sinh ra Sùng Lãm, hiệu là Lạc Long Quân (về sau, Sùng Lãm lấy Âu Cơ và sinh ra bọc trăm trứng, nở thành trăm người con trai, người con cả là Hùng Vương đã lập ra nhà nước Văn Lang). Cuối đời, Kinh Dương Vương nhường ngôi cho Lạc Long Quân.

Nhân một lần Kinh Dương Vương đi qua làng Á Lữ (Thuận Thành, Bắc Ninh) thấy thiên địa nhân hòa, đất đai màu mỡ, cảnh vật tốt tươi nên đã đưa người về sinh sống và chọn nơi đây làm nơi an nghỉ cuối đời, đồng người cũng cho xây dựng lỵ sở ở Luy Lâu để làm việc. Kinh Dương Vương về trời vào ngày Mười tám tháng Giêng. Sau khi Kinh Dương Vương qua đời, nhân dân làng Á Lữ các thời đã lập mộ, xây lăng và không ngừng tôn tạo. Đồng thời họ cũng lấy ngày giỗ của nhà vua để tổ chức lễ hội, tri ân và tưởng nhớ công đức của Người. Còn nhân dân cả nước đã suy tôn người là Thủy Tổ của nước Nam.

Những trầm tích lắng đọng bên đôi bờ nghiêng nghiêng cát trắng

Sông Đuống bây giờ ngày xưa có tên là Thiên Đức. Đây là con sông cổ nổi tiếng vùng Kinh Bắc, dài gần bẩy mươi cây số, nối hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Con sông cổ này chảy từ ngã ba Dâu (giữa Long Biên và Đông Anh, Hà Nội) đến ngã ba thôn Mỹ Lộc (Gia Bình, Bắc Ninh).

Trên hành trình trôi chảy hàng ngàn năm, con sông lúc nào chở nặng phù sa, nghiêng nghiêng đi qua những vùng văn hóa lâu đời cổ kính của người Việt. Cứ như vậy, dòng sông không chỉ là một chứng nhân lịch sử mà còn trực tiếp, miệt mài chuyển chở biết bao huyền thoại và góp phần không nhỏ đắp bồi và sáng tạo ra một nền văn hiến, văn hóa đặc trưng cho xứ Bắc.

Hãy xem, xuôi dòng sông về phía Đình Tổ (Thuận Thành), nhánh Nam của con sông tạo nên dòng Dâu. Sông Dâu đi qua vùng đất Luy Lâu, đổ xuống Ngũ Thái, rồi rẽ sang Cẩm Giàng, Gia Bình, Lương Tài và nhập vào sông Thái Bình đi ra biển Đông. Trên hành trình ấy, con sông đã lượn lờ, uốn khúc tạo thành thế tụ thủy ở Thuận Thành, khiến cho miền đất này trở thành nơi đất trời gặp gỡ, âm dương giao hòa mà các nhà phong thủy gọi là thế đắc địa.

Trên cái thế đất đắc địa ấy, Sỹ Nhiếp đã từng cho xây dựng kinh đô Luy Lâu; rồi mọc lên chùa Dâu và sau này trở thành một trung tâm Phật giáo nổi tiếng của người Giao Chỉ. Tiếp tục xuôi dòng, sông Thiên Đức đi qua Chi Lăng (Quế Võ) để một nhánh nhỏ trôi về hướng Bắc tới núi Dạm, đoạn ở Nam Sơn (Thành phố Bắc Ninh), nơi có ngôi cổ tự (chùa Dạm) và đền Bà Tấm, nổi tiếng với cái giếng “Bống Bống Bang Bang” trong truyện cổ tích “Tấm Cám”. Ngôi chùa và ngôi đền ấy cũng gắn liền với câu chuyện và cuộc đời của bà Nguyên Phi Ỷ Lan, người đã hai lần nhiếp chính, giúp vua Lý Thái Tông trị vì đất nước.

Vẫn trên xứ Bắc, đi được nửa đường, chảy về phía Đông, sông Thiên Đức gặp dãy núi Thiên Thai để tạo thành một cặp đôi sơn thủy hữu tình. Nhưng cũng từ đây sông phải oằn mình chuyên chở bao nỗi oan khiên ngàn đời khôn rửa. Gần một ngàn năm trước, Thái sư Lê Văn Thịnh với nỗi oan hóa hổ hại vua. Đền thờ ông hãy còn đó, nằm ngay dưới chân núi Thiên Thai (làng Bảo Tháp, xã Đông Cứu, Gia Bình) và ngót sáu trăm năm đã qua, những nỗi đau của gia tộc bậc nhất công thần Nguyễn Trãi với nỗi oan ở Lệ Chi Viên (Đại Lai, Gia Bình) vẫn còn khôn rửa. Có lẽ nỗi oan lớn quá mà đời sau người ta phải tạc một giọt lệ bằng đá màu hồng để chia sẻ nỗi đau với người xưa.

Con cháu về tham và tri ân công ơn Đức Thủy Tổ - lưu niệm trước Nghi môn

Con cháu về tham và tri ân công ơn Đức Thủy Tổ - lưu niệm trước Nghi môn

Tiếp tục xuôi dòng, qua cầu Bình Than tới Cao Đức (Gia Bình), ta sẽ đến quê hương của tướng quân Cao Lỗ (277 trước Công nguyên - 179 trước Công nguyên), người đã làm ra nỏ thần giúp Thục phán An Dương Vương xây Loa thành, đánh bại quân Triệu thời đầu nhưng cũng bị gièm pha đến nỗi phải tìm nơi quy ẩn và cuối cùng bị chết thảm khi cố sức cứu giúp cha con An Dương Vương mà bất thành. Bây giờ ở quê ông, đền thờ Cao Lỗ và huyền thoại về ông vẫn còn nguyên ở làng Lớ (Cao Đức, Gia Bình).

Đặc biệt, trên dòng Thiên Đức, khúc qua làng Á Lữ, cả hai mạn Bắc - Nam của dòng sông đều nổi tiếng với những huyền thoại mà mỗi khi nghe đến ta không khỏi khắc khoải muốn tìm về. Bên này bờ Nam là nơi yên nghỉ ngàn đời của ông nội vua Hùng thứ nhất, nơi thờ cả cha Rồng mẹ Tiên, những người đã sinh ra bọc trăm trứng làm nên dòng máu Lạc Hồng truyền đến tận ngày nay và mãi muôn đời về sau.

Bên kia bờ Bắc, phía dãy núi Phật Tích có một huyền thoại gắn với ngôi chùa cổ cùng tên với dãy núi mà người đời ai cũng mơ được gặp. Người ta kể rằng, ngày xưa, trên núi và chùa Phật Tích bạt ngàn hoa mẫu đơn. Hoa mẫu đơn là loài hoa gắn liền với truyền thuyết “Từ Thức gặp Tiên”. Một ngày đầu xuân, thiếu nữ Giáng Hương đến chùa ngắm hoa. Vì vô ý, nàng vịn gãy một cành mẫu đơn nên bị các chú tiểu phạt vạ. May thay, lúc đó chàng Từ Thức đi qua trông thấy bèn cởi áo ngoài chuộc cho nàng. Hai người quen nhau và thường gặp nhau ở chùa vào ngày mùng Một.

Rồi một lần, Giáng Hương mời Từ Thức về nhà chơi. Nàng dẫn chàng đi qua một khu rừng có nhiều hoa mẫu đơn và dẫn chàng đến cái hang đá bên sườn núi. Khi bước qua cửa hang, Từ Thức nhìn thấy lầu son, gác tía, tường gấm và bậc đá màu xanh… Lúc này Giáng Hương mới tiết lộ mình là Tiên và hai người kết duyên thành vợ thành chồng.

Có lẽ, vì huyền thoại này mà hàng năm, vào ngày đầu xuân, người ta mở hội Khán hoa mẫu đơn tưng bừng để trai gái thập phương tấp nập kéo nhau đến thưởng hoa, nghe đọc thơ, bình thơ và hát quan họ. Và đến bây giờ, cái tên huyện Tiên Du của xứ Kinh Bắc cũng vẫn cứ gợi biết bao điều phong tình như thể huyền thoại “Tiên đi du xuân” thủa trước.

Du xuân chùa Phật Tích - Di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật Quốc gia đặc biệt

Du xuân chùa Phật Tích - Di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật Quốc gia đặc biệt

“Nam bang thủy tổ” uy nghi bên dòng sông Thiên Đức

Trang Phúc Khang, làng Á Lữ (Thuận Thành) nằm bên bờ nam sông Thiên Đức. Đoạn sông nơi đây bờ bãi xanh tốt, uốn lượn rất đẹp và mới có cây cầu mang tên Đức Thủy Tổ (cầu Kinh Dương Vương) bắc qua rất duyên dáng. Tương truyền, khi xưa, Kinh Dương Vương trong một lần đi kinh lý qua nơi này đã phát hiện ra thế đất đẹp, có tứ linh (long, ly, quy, phượng), có sông núi bao quanh tựa rồng chầu, hổ phục nên đã đem những cư dân Việt cổ đến khai khẩn đất đai lập nên xóm làng. Đồng thời, người cũng chọn nơi này làm nơi tĩnh dưỡng cuối đời và an nghỉ khi khuất núi.

Không biết thời trước quần thể lăng mộ, đền đài nơi này ra sao nhưng nghe nói, đương thời Kinh Dương Vương cho xây dựng ở vùng đất Á Lữ rất nhiều hành cung để quy tụ hiền tài khắp miền về bàn luận việc nước. Và sau khi người hóa thì quần thần và nhân dân cũng đã theo di nguyện mà an táng rồi lập lăng mộ, đền đài cúng tế tại nơi đây. Về Á Lữ chúng tôi nghe kể, thời xưa, hàng năm, ngày giỗ Đức Thủy Tổ được xếp vào hàng quốc lễ, vua Hùng và các triều đại phong kiến Việt Nam sau này đều phải đến để hương khói phụng thờ. Bởi thế chốn này được coi là linh thiêng bậc nhất ở vùng Kinh Bắc.

Có lẽ, thời gian và chiến tranh đã tàn phá nên những đền đài miếu mạo ngày xưa ở nơi đây đã không còn đầy đủ và nguyên vẹn. Vốn xưa, đền thờ Kinh Dương Vương được xây dựng ở phía Tây làng Á Lữ, gọi là đền Thượng, gồm hai gian tiền tế và hậu đường. Ở gần đền Thượng có đền Hạ là nơi thờ cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ.

Đến thời kỳ chống Pháp, năm 1949, đền và đình làng đều bị giặc Pháp phá dỡ lấy vật liệu để làm bốt Á Lữ. Dân làng luyến tiếc, xót xa, nhặt nhạnh các đồ thờ tự còn lại đưa về cất giữ ở khu Văn chỉ của làng. Rồi sau ngày hòa bình lập lại, khoảng những năm cuối thập niên năm mươi ở thế kỷ trước, nhân dân mới sửa chữa Văn chỉ thành đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ theo sự tích bọc trăm trứng và suy tôn là thủy tổ của người nước Nam.

Sau này, trải qua nhiều lần tôn tạo, đến năm 2000, ngôi đền chung thờ các bậc thủy tổ của dân tộc đã được phục dựng lại, theo phong cách kiến trúc truyền thống. Hiện nay quần thể di tích lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ nằm trên một diện tích rộng 36ha; trong đó khu lăng mộ 31,8ha , khu đền thờ 4,2ha. Khu lăng mộ nằm ở bên bãi, mạn bờ Nam sông Thiên Đức. Đền thờ nằm ở trong làng Á Lữ.

Trình diễn dân ca quan họ ở chùa Dâu

Trình diễn dân ca quan họ ở chùa Dâu

Khu di tích lăng mộ Kinh Dương Vương gồm có các hạng mục công trình như các đình đền thờ tự truyền thống, gồm: Nghi môn (cổng lăng); sân rộng; lăng mộ Kinh Dương Vương; nhà thờ quan Văn, nhà thờ quan Võ; nhà khách. Lăng mộ Kinh Dương Vương ở giữa, trên nền đất cao khoảng một mét so với mặt sân. Lăng nhìn về hướng Bắc, ra phía dòng sông. Sau lăng là gò đất, trước mặt là dòng nước mênh mông êm đềm xuôi chảy, bờ bãi trải rộng nhìn thoáng đãng và rất đẹp. Địa thế của lăng Kinh Dương Vương như thế khiến người ta nghĩ đến thế đất phong thủy tựa sơn đạp thủy mà người phương Đông rất chuộng để đặt mồ mả.

Men theo con đê uốn lượn bên dòng Thiên Đức, nhìn từ xa vào khu lăng mộ, chúng tôi trông thấy những tán cổ thụ um tùm, tươi tốt bao trùm cả không gian thờ tự cổ kính. Khi gần đến nơi, khu lăng mộ hiện dần ra trong tầm mắt với dáng vẻ rất uy nghi. Vào khu lăng mộ, chúng tôi không khỏi choáng ngợp bởi sự bề thế, trang nghiêm của các công trình.

Mở đầu là nghi môn với bốn cột trụ trang trí giả đèn lồng bằng đá cao to sừng sững chia thành ba lối đi. Hai trụ bên ngoài thấp hơn, trên đỉnh có tạc hai con nghê chầu như thể đang rất chăm chú quan sát để kiểm soát người đi ra đi vào. Hai trụ giữa cao hơn, trên đỉnh có bốn con chim đang chụm đuôi vào nhau, bốn đầu quay ra bốn phía gợi lên một bầu trời bao la, đồng thời cũng thể hiện một cái nhìn thấu suốt bốn phương tám hướng của loài linh vật nơi đất thánh. Đó cũng là sự răn đe và nhắc nhở con người khi về đây hành lễ phải có tâm can trong sáng, duyên khởi phúc lành.

Phía dưới con chim và phía trên ô đèn lồng giả để trang trí là bốn con rùa nhô đầu ra bốn góc. Sự kết hợp giữa rùa và chim gợi cho người ta nghĩ đến khát vọng trường tồn, may mắn. Rùa là loài vật sống dưới đất, chim sống ở trên cao, bay trên trời. Hai linh vật rùa và chim còn gợi cho người ta nghĩ đến cặp đôi âm dương, thể hiện khát vọng cầu may mắn, mưa thuận gió hòa, mọi vật sinh sôi phát triển.

Phía sau Nghi môn là một khoảng sân rộng lát bằng đá. Đi qua khoảng sân, bước qua bảy bậc đá là lên đến lăng mộ của Đức Thủy Tổ Kinh Dương Vương. Không rõ thời xưa lăng mộ được làm từ khi nào nhưng công trình hiện nay vẫn còn giữ được tấm bia đá trùng tu từ thời nhà Nguyễn, năm 1840 (năm Minh Mạng 21), có chạm khắc bốn chữ Hán “Kinh Dương Vương lăng” và trên lăng treo các bức đại tự: “Nam bang Thủy Tổ” (Ông tổ của nước Nam) để khẳng định việc thờ phụng Đức Thủy Tổ có từ rất lâu đời.

Phía trước phần mộ có hai chữ “Bất Vong”, nghĩa là không bao giờ mất, không bao giờ quên để khẳng định sự trường tồn. Ngoài ra, ở lăng còn có treo một số câu đối, ví như: “Vạn cổ giang sơn ân hồn tổ / Nhất khâu phong vũ ngật hồng bi” (Hàng vạn năm con cháu quy về miếu Tổ / Một nấm mồ phong ba bão táp vẫn ửng hồng), “Đức giang kim lăng miếu / Nghĩa Lĩnh cổ kim thành” (Lăng miếu ở bờ sông Nguyệt Đức / Kinh thành xưa ở núi Nghĩa Lĩnh); “Lập thạch kỷ công Nam thánh tổ/ Phong phần tố tích Bắc thần tôn” (Lập bia là để ghi lại công đức thánh Tổ nước Nam/ Đắp mộ là để nhớ lại dấu tích thần tôn đất Bắc)... Lăng mộ Đức Thủy Tổ khang trang nằm trên gò đất cao và được phục dựng rất đẹp.

Kiến trúc của lăng thiết kế theo kiểu hai tầng tám mái, lợp ngói mũi hài và trang trí theo kiểu truyền thống nhìn rất duyên dáng, cổ kính; trước cửa lăng có bệ thờ cùng một số đồ thờ bằng sành, sứ cỡ lớn, hoa văn rất đẹp. Dưới sân, phía trước lăng, có hai nhà thờ quan Văn và quan Võ ở hai bên. Dọc hai bên sân là nhà khách để phục vụ con cháu trên cả nước về tri ân công đức Tổ tiên.

Du xuân chùa Dâu - Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia đặc biệt

Du xuân chùa Dâu - Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia đặc biệt

Ở cách lăng mộ không xa là đền thờ Kinh Dương Vương, nằm ở trung tâm làng Á Lữ. Đền thờ chính được xây dựng theo hình chữ “Công”, gồm năm gian tiền tế, một gian ống và ba gian hậu cung. Bên trong đền là nơi đặt ngai thờ của ba vị thủy tổ nước Nam. Gian giữa là ngai thờ Kinh Dương Vương, gian bên phải là ngai thờ Lạc Long Quân, bên trái là ngai thờ Âu Cơ. Cột và khung mái của đền được làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói ta. Trang trí trong đền có nhiều họa tiết được chạm khắc tinh xảo.

Trong đền có treo và giữ được một số bức hoành phi, câu đối sơn son thiếp vàng rất đẹp. Hoành phi có các bức khẳng định Kinh Dương Vương là Thủy tổ của nước Nam: “Nam bang thủy tổ” (Ông tổ của nước Nam), “Nam tổ miếu” (đền thờ ông tổ nước Nam)… Các câu đối cũng ca ngợi công đức của các bậc Thủy Tổ có công với đất nước như: “Việt Nam hoàng đồ vạn lý giang sơn đế tạo thủy - Hồng Bàng đế trụ thiên thu hà lạc tú linh chung” (Cương vực Việt Nam, núi sông vạn dặm vốn tạo dựng từ đầu/ Họ Hồng Bàng đế vương gìn giữ, ngàn năm còn để lại tiếng linh thiêng);

“Chính khí hạo nhiên khung nhưỡng tại/ Minh uy xán nhược nhật tinh lâm” (Chính khí vẫn còn rạng rỡ ở đất này/ Uy linh xán lạn hơn cả mặt trời dọi xuống);

“Phụ đạo thiên niên quốc - Âu Cơ bách noãn bào” (Đạo người cha hàng ngàn năm vẫn là đạo của đất nước/ Mẹ Âu cơ mãi mãi là mẹ sinh ra bọc trăm trứng);

“Thái cực nhất nguyên thiên địa thủy/ Viêm giao Bàn cổ đế chủ tiên” (Thái cực là khối nguyên khí chia ra thì trời đất là trước nhất/ Thời Bàn cổ đất Viêm Giao hình thành có đế chủ và tiên);

“Bách nam vận sự truyền sơn hải/ Nhất tộc nghiêm từ trĩ cổ kim” (Trăm con trai phụng sự đi mở vận lan truyền khắp núi sông/ Một họ thờ nơi đền thiêng, sừng sững suốt cổ kim);

“Thiên tải cương thường kiêm quốc gia hưng thịnh/ Thập bát hùng đồ giai miếu duệ sở di” (Nghìn năm đạo cương thường để xây dựng nền hưng thịnh nước nhà/ Dòng dõi mười tám đời vua Hùng còn để lại các miếu thờ trong khắp nước non).

Ngoài các bức hoành phi câu đối trong đền thờ Kinh Dương Vương còn lưu giữ được nhiều bảo vật có giá trị như: Thần phả, ngai bài vị, văn tế… cùng với nhiều đồ nghi trượng bằng đồng, gỗ, sứ như mâm, đỉnh, lư hương, ống hoa, thau rước nước, chiêng… đặc biệt là 15 đạo sắc phong của triều đình nhà Nguyễn, trong đó lâu đời nhất có sắc phong năm Gia Long thứ chín (năm 1810).

Du xuân bên dòng sông Thiên Đức - Kinh Bắc

Du xuân bên dòng sông Thiên Đức - Kinh Bắc

Đặc biệt, để tưởng nhớ công đức của các tiền nhân, hàng năm, vào ngày giỗ của Kinh Dương Vương, dân làng Á Lữ tổ chức lễ hội rất to. Nghe kể, ngày xưa lễ hội diễn ra trong chín ngày, từ ngày Mười sáu đến ngày Hai mươi tư tháng Giêng. Ngày Mười sáu các bô lão làm lễ nhập tịch tại Đền Thượng và Đền Hạ, tối làm lễ tập luyện nghi thức tế lễ, rước kiệu… Ngày Mười bảy dân làng tổ chức đám rước từ đình sang đền.

Tham gia đoàn rước là các nam thanh niên từ mười tám tuổi đến bốn mươi lăm tuổi, mặc quần áo hai thân, màu sắc rực rỡ. Những người đi đầu đoàn rước cầm cờ, bát biểu, lồng đèn, chấp kích; tiếp đến là hai kiệu long đình, mỗi kiệu có tám người khênh. Kiệu đi trước để sắc phong; kiệu sau rước chóe nước cúng. Các kiệu có lọng che cẩn thận. Sau hai kiệu long đình là đoàn người rước cờ, đánh trống, đánh chiêng, phường bát âm. Tiếp đến là ba kiệu, mỗi kiệu có mười hai người rước. Kiệu đi trước rước ngai thờ Kinh Dương Vương kiệu thứ hai rước ngai thờ Lạc Long Quân, kiệu thứ ba rước ngai thờ Âu Cơ. Đoàn rước vào đền làm lễ an vị và phong mã.

Ngày Mười tám, buổi sáng làm lễ phụng nghinh từ đền rước lên đê rồi xuống thuyền ngược dòng sông, ra đến giữa sông, sau khi đọc thần chú xong, đoàn rước tiến hành múc nước đổ vào chóe, rồi vào bờ, rước vào lăng làm lễ hành tại. Lễ xong rước về đình, đền làm lễ an vị.

Ngày Mười chín, Hai mươi các giáp trong làng hành lễ. Ban ngày lễ xôi, thịt lợn; ban tối lễ xôi gà. Ngày Hai mươi mốt làm lễ sát sinh. Theo lệ, Cai Đám đem “ông lợn” (được làng cử người chăn nuôi béo tốt, sạch sẽ) để làm lễ ở đình, đền xong khao dân.

Ngày Hai mươi hai, Hai mươi ba các chạ, các nóc dân làm lễ chính ngư. Theo tục, các loại cá có vẩy dân không được dùng trong các ngày lễ hội. Cá làm gỏi phải sạch sẽ, rửa bằng rượu và trộn nước lá thơm. Những mâm gỏi cá này mang ý nghĩa là vật phẩm của người con trai xuống biển đánh cá mang về dâng lên cha mẹ.

Ngày Hai mươi tư làm lễ rước mã từ đình về đền, buổi chiều lễ yên vị xong hóa mã (đốt vàng mã) và kết thúc lễ hội. Trong những ngày lễ hội dân làng tổ chức rất nhiều trò chơi cũng như ca hát để giao lưu, vui chơi. Lễ hội làng Á Lữ thuộc hàng quốc lễ; thể hiện ý nghĩa nhân văn cùng đạo lý “uống nước nhớ nguồn” rất sâu sắc. Đồng thời lễ hội này cũng phản ánh khá rõ những sinh hoạt và khát vòng cầu mùa của cư dân nông nghiệp Lạc Việt thủa xưa, vốn có nguồn gốc “con Rồng cháu Tiên”.

Thời phong kiến, hàng năm, cứ đến ngày giỗ của Đức Thủy Tổ, quan quân, quần thần triều đình đều phải về đây tế lễ, bái kiến trời đất, tổ tông. Bây giờ lễ hội tổ chức chỉ trong vài ba ngày, trọng lễ là ngày Mười tám. Trong ngày trọng lễ lãnh đạo các cấp cũng thường xuyên về hành lễ. Bởi thế, trong vung, dân gian có câu: “Nhớ ngày Mười Tám tháng Giêng / Giỗ vua Thủy Tổ thiêng liêng nước nhà / Dù ai xuôi ngược gần xa / Tìm về bái Tổ xứng là đạo con”. Với ý nghĩa như thế, năm 1993, khu di tích lăng và đền thờ Kinh Dương Vương đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

“Uống nước nhớ nguồn” là một đạo lý của người Việt Nam. Từ xưa đến nay, mỗi mùa xuân về, trong hành trình du xuân của mình, rất nhiều con dân đất Việt không quên trở về miền đất Phong Châu (Phú Thọ) để thành kính tri ân các vua Hùng, người đã có công xây dựng nên nhà nước Văn Lang, nhà nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam (vào khoảng thế kỉ thứ VII - VI trước công nguyên, ở giai đoạn văn hóa Đông Sơn).

Hành trình du xuân ấy ý nghĩa và rất phù hợp đạo lý nhưng thế vẫn chưa đủ. Hành trình về với cội nguồn của buổi đầu tiên ấy ta còn phải nhớ đến một miền thượng du ở Hiền Lương (Hạ Hòa, Phú Thọ), nơi có đền thờ mẹ Âu Cơ; phải nhớ đến một miền biển thửa xa xưa ở Bình Đà (Thanh Oai, Hà Nội), nơi có đền thờ cha Lạc Long Quân; đặc biệt, không được quên, phải nhớ đến một triền sông Thiên Đức ở Á Lữ, nơi có lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, người được coi là Thủy Tổ của cộng đồng Bách Việt để tưởng nhớ, tri ân các đấng thủy tổ rồng, tiên cho tròn đạo hiếu.

Thu Hiền - Phan Anh

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/tham-lang-thuy-to-du-xuan-ben-dong-thien-duc-a28039.html