Thập Nhị Binh Thư - Binh thư số 9: Đường Thái Tông - Lý Vệ Công Vấn Đối
'Đường Thái Tông - Lý Vệ Công vấn đối' hay 'Lý Vệ Công binh pháp' của Lý Tĩnh đã trở thành một phần trong 'Vũ kinh thất thư' - bảy cuốn binh pháp có vai trò quan trọng mà mọi tướng lãnh hậu thế đều phải học tập.
Năm Trinh Quán thứ 17 triều nhà Đường (năm 643), Đường Thái Tông lệnh cho vẽ 24 bức họa của các vị công thần tại Lăng Yên Các, nhằm biểu dương công lao to lớn của họ, những văn thần võ tướng này đều là những người bề tôi có công phò tá Đường Thái Tông khai sáng ra thời kỳ "Trinh Quán chi trị". Trong số này có danh tướng Lý Tĩnh: tinh thông binh pháp, nam chinh bắc chiến, văn võ song toàn, đảm nhiệm các chức quan Kiểm giáo trung thư lệnh, Binh bộ thượng thư, Thượng thư hữu bộc xạ (tức là Thừa tướng), được phong là Vệ Quốc Công. Đường Thái Tông kính trọng và trông cậy tuyệt đối vào người tướng lập công, lập đức, lập ngôn, trọn vẹn cả một đời, thực hiếm có xưa nay. Hậu thế cũng ngưỡng vọng Lý Tĩnh cao độ, bao nhiêu triều đại sau vẫn đều kính ông là bậc công thần.
Lý Tĩnh (571-649), biểu tự Dược Sư, là người Thiểm Tây, vốn là quan nhà Tùy, sau quy về họ Lý nhà Đường. Ông dụng binh liệu sự như thần, trong các hoàn cảnh chiến tranh đều có thể liệu địch biến hóa mà giành được thắng lợi, nên một đời không chiến bại.
Sử chép thời đầu khi nhà Đường khai quốc, chiến công và giang sơn Lý Tĩnh thu về chỉ đứng sau Lý Thế Dân – người sau này trở thành Đường Thái Tông. Nhờ những công lao hiển hách, Đường Cao Tổ Lý Uyên từng nói về ông rằng: "Các danh tướng cổ đại như Hàn Tín, Bạch Khởi, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, không có ai có thể so với Lý Tĩnh". Các chiến công của Lý Tĩnh đã giúp cho nhà Đường mở rộng lãnh thổ mấy ngàn dặm về phía tây và tây bắc, trở thành đất nước bá chủ hùng mạnh nhất Đông Á và Trung Á thời bấy giờ.
Lý Tĩnh căn cứ vào kinh nghiệm thực chiến mà viết binh thư, dưới hình thức là chép lại các cuộc đàm luận giữa mình và Đường Thái Tông. Tinh hoa của ông hội tụ trong cuốn "Đường Thái Tông – Lý Vệ Công vấn đối" hay "Lý Vệ Công binh pháp" – cuốn binh thư mà mọi tướng lãnh hậu thế đều phải học tập.
Vệ Quốc Công Lý Tĩnh văn thao võ lược, trọn đời trung quân yêu dân, coi việc bình định thiên hạ, diệt trừ bạo loạn là trọng trách của mình, không mưu đồ tư lợi, không tham tiền tài, không sợ quyền thế, quang minh lỗi lạc. So với nhiều bậc công thần danh tướng của nhiều triều đại phong kiến thì điều đáng quý nhất ở Lý Tĩnh là ông hết mực trung thành, luôn khiêm cung cẩn trọng mà không cậy công tự kiêu, không ham tiếc chức vị cao. Khi tham nghị quốc sự trong triều, ông luôn ôn hòa, không tranh giành đấu đá với ai khác.
Đảm nhiệm Thừa Tướng (Thượng thư hữu bộc xạ) được vài năm, ông cáo bệnh từ quan, trong thư dâng Đường Thái Tông viết những lời chân thành khẩn thiết, khiến Thái Tông hoàng đế cảm kích và tán thưởng, gọi ông là "tấm gương của quần thần". Ông sống an nhàn đến cuối đời, không gây hệ lụy cho bản thân và gia quyến vì công lao lấn chủ. Dù Lý Tĩnh cáo quan nhưng Đường Thái Tông quý tiếc nhân phẩm và tài năng của ông, ban cho "đặc tiến" để ông vẫn tham nghị những việc quốc sự hệ trọng, và còn truyền dạy cho các đại tướng khác binh pháp.
Là võ tướng nhiều năm cầm quân chốn sa trường nhưng Lý Tĩnh được người đời bội phục nhất là những khi đối diện với oan khuất bất ngờ ập đến, ông không tranh luận, không biện giải, càng không hề oán hận và thay lòng đổi dạ. Bị oan xong mà Lý Tĩnh vẫn một lòng trung với nước, cúc cung tận lực. Lý Tĩnh có hai lần bị vu cáo, đều là sau những khi lập đại công, nhưng ông điềm nhiên gánh chịu.
Lần thứ nhất là năm 630, Lý Tĩnh thống lĩnh binh mã chinh phạt Đột Quyết – một cường quốc ở phía Tây Bắc không ngừng tiến binh xuống quấy nhiễu nhà Đường. Diệt Đột Quyết không những giải trừ mối hiểm họa nơi biên ải mà còn rửa sạch mối hận mà Lý Uyên cùng Lý Thế Dân từng hạ mình trước Đột Quyết năm xưa. Đây là một đại thắng, hơn nữa lấy ít địch nhiều, khiến uy danh của Đại Đường lừng lẫy. Sau khi Đột Quyết diệt vong, các nước chư hầu chung quanh đều tôn Đường Thái Tông làm "Đại Khả Hãn". Ngày đó, Thái thượng hoàng Lý Uyên và Thái Tông Lý Thế Dân cùng các vị đại quan, vương công quý tộc đều mừng rỡ vô cùng vì tiền đồ của nước nhà.
Vậy mà khi chiến tướng người lập đại công hồi triều, lại có quan đại phu dâng biểu tấu rằng Lý Tĩnh không biết trị quân, để binh sĩ làm loạn cướp đi những chiến lợi phẩm quý báu, thỉnh cầu thẩm tra luận tội. Đường Thái Tông nổi giận khiển trách Lý Tĩnh. Gặp cơn oan khuất, Lý Tĩnh không hề tranh luận hay biện giải, chỉ lặng lẽ tạ tội, cũng không chút oán thán. Về sau, khi tra xét rõ sự thực, Đường Thái Tông yên ủi Lý Tĩnh: "Trước kia có người phỉ báng ông, giờ Trẫm đã hiểu rõ sự thật, ông chớ có để bụng chuyện này." Đoạn ban thưởng lớn cho Lý Tĩnh, thăng cấp ông làm Thượng thư hữu bộc xạ (Thừa tướng).
Năm 635, nước Thổ Dục Hồn lại tiến quân xâm phạm. Lý Tĩnh không màng tuổi tác đã cao, vẫn xin dẫn các lộ quân nhà Đường vượt nghìn dặm truy kích giặc. Sau hai tháng, ông đã công diệt được Thổ Dục Hồn. Phá được giặc nhưng Lý Tĩnh vẫn bị người vu cáo mưu phản. Đường Thái Tông hạ lệnh điều tra việc này, cuối cùng cũng rõ lòng trung của Lý Tĩnh. Hoàng đế đày kẻ vu khống ra biên cương.
Lòng trung thành và nhân phẩm cao thượng của Lý Tĩnh khiến vua tôi nhà Đường phải mười phần kính trọng ông. Khi Lý Tĩnh qua đời ở tuổi 79, Thái Tông vô cùng bi thống, ban cho Lý Tĩnh vinh dự được an táng bên cạnh Chiêu Lăng – nơi an táng Đường Thái Tông sau đó chỉ vài tháng. Minh quân và lương tướng lại cùng được sát vai nhau, khiến hậu thế thêm ngưỡng mộ.
Từ xưa đến nay, những danh tướng lập đại công mà hành xử được như Lý Tĩnh là không nhiều. Chính là tài dụng binh, tấm lòng rộng rãi, khiêm cung từ tốn giúp Vệ Quốc Công Lý Tĩnh được tôn là một trong những đại danh tướng xưa nay. Sách Cựu Đường Thư(1) có chép về ông: "Chức trọng mà có thể tránh, công thành mà lại khiêm nhường. Đẹp thay!"
"Đường Thái Tông – Lý Vệ Công vấn đối" thuộc binh pháp số 9 trong 12 binh pháp của cuốn sách "Thập Nhị Binh Thư" được Nhà sáng lập – Chủ Tịch Tập đoàn Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ cẩn trọng, tuyển chọn thuộc lĩnh vực Chính trị – Ngoại giao – Quân sự trong Tủ sách "Nền tảng đổi đời".
* Ghi chú: (1) Là một trong các pho chính sử của Trung Quốc, được biên soạn thời hậu Tấn năm 945.