Thị trường Halal: Cơ hội mở cho doanh nghiệp Việt Nam

Thị trường Halal đạt 2.000 tỷ USD năm 2024, dự kiến cán mốc 3.000 tỷ USD năm 2030 là sân chơi hấp dẫn cho doanh nghiệp Việt.

Thị trường bị “lãng quên”

Tại Hội thảo khoa học quốc tế “Tiếp cận thị trường Halal toàn cầu - Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách Công Thương, Bộ Công Thương phối hợp tổ chức ngày 25/6, nhiều nhà khoa học cũng như đại diện đơn vị đều khẳng định Halal là thị trường rất tiềm năng nhưng chưa được doanh nghiệp Việt Nam khai thác hiệu quả.

Doanh nghiệp Việt Nam trưng bày sản phẩm tại Tuần lễ Halal Week, tại Hà Nội. Ảnh: Thanh Tuấn

Doanh nghiệp Việt Nam trưng bày sản phẩm tại Tuần lễ Halal Week, tại Hà Nội. Ảnh: Thanh Tuấn

PGS.TS. Đinh Công Hoàng - Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và châu Phi thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam gọi Halal là thị trường bị “lãng quên”. Nguyên do, đây là thị trường có quy mô rất lớn với 7.000 tỷ USD năm 2024, dự kiến đạt 10.000 tỷ USD năm 2028, đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm 6-8%.

Đặc biệt, dân số Hồi giáo lớn và đang phát triển, năm 2024 là 2 tỷ người, dự báo năm 2030 tăng lên 2,2 tỷ người, năm 2050 đạt 2,9 tỷ người, chiếm 1/3 dân số thế giới. Cùng đó, tốc độ tăng trưởng GDP của các nước Hồi giáo rất cao, năm 2024 đã đạt 4,2% và dự báo tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới.

Tiềm năng là vậy nhưng tại Việt Nam việc khai thác thị trường Halal còn nhỏ lẻ”, PGS.TS Đinh Công Hoàng cho hay. Ông cũng thông tin, năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Halal của Việt Nam sang Trung Đông ước đạt gần 700 triệu USD. Trong số hàng hóa Halal xuất khẩu của Việt Nam, thủy sản chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đó đến các mặt hàng nông sản như trái cây, các loại hạt, cà phê, chè và gia vị. Cuối cùng là thực phẩm chế biến.

Bức tranh sản xuất, xuất khẩu sản phẩm Halal theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách Công Thương cũng khá mờ nhạt. Hiện chỉ khoảng 0,2% doanh nghiệp Việt Nam có sản phẩm đạt chứng nhận Halal, tập trung tại TP.HCM, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương. Phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó trong tiếp cận tiêu chuẩn Halal do thiếu thông tin. Điều này gây hạn chế khả năng gia nhập các chuỗi cung ứng Halal phức tạp hơn, đặc biệt là ở các thị trường cao cấp.

Quản lý Nhà nước về ngành Halal cũng còn manh mún, thiếu đầu mối điều phối chung, dẫn đến sự phân tán giữa các bộ ngành và mỗi bộ ngành triển khai các hoạt động riêng rẽ, chưa tạo ra hệ thống chính sách đồng bộ.

Bên cạnh đó, thị phần sản phẩm Halal Việt Nam trên thị trường toàn cầu rất nhỏ bé khi 85% sản phẩm xuất khẩu ở dạng nguyên liệu thô hoặc thực phẩm sơ chế, ít có sản phẩm chế biến sâu, mỹ phẩm Halal hay dược phẩm sinh học đạt chuẩn xuất khẩu.

Các thương hiệu Halal Việt Nam chưa thực sự hiện diện mạnh mẽ và bền vững tại các hệ thống phân phối lớn ở Trung Đông, ASEAN hay Nam Á. Đặc biệt, Việt Nam chưa có chuỗi cung ứng Halal hoàn chỉnh. Thiếu hụt hạ tầng trọng yếu như kho lạnh, giết mổ, chế biến, logistics và trung tâm kiểm nghiệm đạt chuẩn Halal… là những rào cản lớn cũng đồng thời kéo tăng chi phí, kéo dài thời gian ra thị trường của doanh nghiệp.

Khuyến nghị từ chuyên gia

Thị trường Halal - theo phân tích của các chuyên gia đang dần trở thành một động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Nguyên do không chỉ bới quy mô và tốc độ tăng trưởng dân số các nước Hồi giáo mà còn bởi sản phẩm Halal tuân thủ quy định sản xuất nghiêm ngặt, sản phẩm tạo ra sạch và có trách nhiệm xã hội, trách nhiệm môi trường. Đó cũng là sản phẩm đang được người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn hiện nay.

Hội thảo khoa học quốc tế “Tiếp cận thị trường Halal toàn cầu - Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam”. Ảnh: Thanh Tuấn

Hội thảo khoa học quốc tế “Tiếp cận thị trường Halal toàn cầu - Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam”. Ảnh: Thanh Tuấn

PGS. TS Đinh Công Hoàng cũng thông tin, Chính phủ Việt Nam rất quan tâm phát triển ngành Halal. Theo đó, Chính phủ đã xây dựng định hướng chiến lược về phát triển ngành Halal đến năm 2030, trong đó có Đề án về "Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030"; thành lập Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia, hoàn thiện các quy định pháp lý và tiêu chuẩn về Halal quốc gia…

Tuy nhiên, để ngành này thực sự trở thành một lực đẩy cho phát triển kinh tế Việt Nam, PGS.TS Đinh Công Hoàng cho rằng, Việt Nam còn phải vượt qua nhiều rào cản. Đáng kể nhất là không nhiều người Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam có hiểu biết về Halal. Quá trình chứng nhận Halal tại Việt Nam vẫn phức tạp và chưa được hài hòa hóa với quốc tế.

Cùng đó, chi phí cao đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư vào các dây chuyền sản xuất, thiết bị chuyên dụng, nguồn nguyên liệu an toàn và tuân theo các tiêu chuẩn Halal. Thiếu vắng một hệ sinh thái Halal đầy đủ (gồm sản xuất, dịch vụ, hạ tầng cơ sở và hỗ trợ của Nhà nước) để phát triển ngành Halal bền vững.

Để vượt qua thách thức này, PGS.TS Đinh Công Hoàng khuyến nghị, các cơ quan quản lý Nhà nước “bắt tay” cùng cộng đồng doanh nghiệp triển khai hiệu quả Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030”.

Nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp, chính phủ, địa phương tại Việt Nam về tiềm năng của thị trường Halal. Đẩy mạnh ngoại giao kinh tế và xúc tiến thương mại với các nước Hồi giáo, nghiên cứu ký kết hiệp định thương mại tự do mới giữa Việt Nam và các thị trường Halal tiềm năng, tận dụng lợi thế từ các hiệp định khu vực.

Thành lập và vận hành cơ quan quản lý Halal tại Việt Nam và triển khai các hoạt động tiêu chuẩn hóa, thử nghiệm, cấp chứng nhận Halal cho doanh nghiệp và chuyên gia, ký kết các hiệp định công nhận tiêu chuẩn lẫn nhau với các quốc gia Hồi giáo.

Thiết lập hệ sinh thái Halal, thu hút cả đầu tư nước ngoài và đầu tư Halal trong nước, thúc đẩy xuất khẩu Halal trong các lĩnh vực ưu tiên (thực phẩm, nông sản, mỹ phẩm, du lịch, may mặc, giày dép…). Thúc đẩy chuyển đổi số và thương mại điện tử để xuất khẩu sang thị trường Halal.

Ở vai trò đơn vị nghiên cứu, Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách Công Thương cũng khuyến nghị: Việt Nam đang ở giai đoạn khởi đầu trong phát triển ngành Halal. Thị trường Halal toàn cầu mở ra cơ hội “vàng” cho phát triển kinh tế đa chiều, song để tận dụng hiệu quả, các cơ quan chức năng cần hoàn thiện cơ chế, chính sách đồng bộ, có trọng tâm và tầm nhìn dài hạn cho ngành Halal.

Đầu tư mạnh vào hạ tầng chuỗi cung ứng, đặc biệt là logistics và kiểm soát chất lượng; phát triển năng lực doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận chuẩn Halal và xây dựng thương hiệu; tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là trong công nhận chứng nhận và mở rộng thị trường.

Về chiến lược phát triển ngành Halal, cần xác định rõ tầm nhìn, mục tiêu phát triển dài hạn. Định hướng Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất, chế biến và phân phối sản phẩm Halal đáng tin cậy tại châu Á - Thái Bình Dương.

Tích hợp mục tiêu phát triển sản phẩm Halal vào các chương trình lớn. Xây dựng và quảng bá thương hiệu quốc gia sản phẩm Halal Việt Nam

Đại diện cho đơn vị đánh giá, chứng nhận Halal, ThS. Fatiha Trần- Phó Giám đốc Halal Việt Nam cho rằng, cải thiện nhận thức của công chúng và doanh nghiệp, thậm chí cán bộ quản lý Nhà nước về Halal là yếu tố cực kỳ quan trọng trong phát triển ngành này. Vai trò của đào tạo trong trường đại học, trường nghề về Halal cần phát huy. “Chúng ta có thể chưa cần đào tạo ồ ạt và rộng mà nên bắt đầu bằng những modul nhỏ để Halal dần định hình và được hiểu biết ngày một sâu hơn, đầy đủ hơn trong cộng đồng. Từ đó hình thành và phát triển thị trường thậm chí hệ sinh thái Halal toàn diện, sâu sắc”, Phó Giám đốc Halal Việt Nam nói.

Tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng, bao gồm cả doanh nghiệp về ngành Halal được khuyến nghị là bước đầu quan trọng để thúc đẩy ngành Halal của Việt Nam phát triển.

Hải Linh

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/thi-truong-halal-co-hoi-mo-cho-doanh-nghiep-viet-nam-407553.html