Thiếu hành lang pháp lý về tài sản số dẫn đến thất thu thuế, rủi ro lừa đảo lớn
Tuy tài sản số nói chung và tiền kỹ thuật số nói riêng đã có những quy định nhất định, nhưng tại Việt Nam hầu như chưa có quy định nào (trừ tiền điện tử là tiền pháp định), tạo ra lỗ hổng pháp lý, thất thu thuế, rủi ro khá lớn…
Việt Nam đứng thứ 4 thế giới về lượng người sở hữu tiền số
TS Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo đánh giá về quản lý tiền kỹ thuật số (KTS).
Theo đó, tiền kỹ thuật số có 2 dạng: Một là tiền pháp định (nếu được ngân hàng quốc gia phát hành); hai là không phải tiền pháp định, không chính thống (nếu do các cá nhân, tổ chức khác phát hành, như bitcoin, onecoin, ethereum, etc…), được gọi là tiền ảo hoặc tiền mã hóa.
Trên thế giới, hiện nay có khoảng 17.000 loại tiền KTS không chính thống như thế này với trị giá vốn hóa khoảng 3.000 tỉ USD, trong đó bitcoin chiếm khoảng 57%, còn lại là các đồng tiền khác.
Tiền KTS do ngân hàng trung ương (NHTƯ) phát hành (Central Bank Digital Currency - CBDC) là tiền pháp định (tiền fiat) dưới dạng KTS được phát hành, kiểm soát và bảo đảm bởi NHTƯ của một quốc gia hay vùng lãnh thổ có chủ quyền, với đầy đủ các chức năng của tiền pháp định.
Theo bảng theo dõi của Hội đồng Atlantic (Atlantic council Cryptocurrency Reglation tracker) cập nhật đến tháng 9.2024, khảo sát về cách tiếp cận quản lý tiền KTS (không bao gồm tiền KTS do NHTƯ phát hành) tại 60 quốc gia cho thấy 3 nhóm: 33 quốc gia (chiếm 55%, chủ yếu là các nước phát triển) công nhận/cho phép giao dịch, 17 quốc gia (28%) cấm một phần (Việt Nam ở trong nhóm này), và 10 quốc gia (17%) cấm hoàn toàn.

Thiếu hành lang pháp lý về tài sản số
Đối với tiền KTS do NHTƯ phát hành (CBCD), hiện có 134 quốc gia và khu vực (chiếm 98% GDP toàn cầu) đã và đang khám phá CBCD (tăng nhanh, từ 35 quốc gia vào tháng 5.2020); 44 quốc gia đang thử nghiệm (như EU, Trung Quốc, Brazil, Úc…), 19 quốc gia đang phát triển, 39 quốc gia đang nghiên cứu (có Việt Nam)…
Tại Việt Nam, theo thống kê của Cổng thanh toán tiền số Tripple-A, có 20,9 triệu người sở hữu tiền KTS (chủ yếu là tiền mã hóa không chính thức) trong năm 2023. Việt Nam đứng thứ 4 thế giới (sau Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ) về số lượng người sở hữu tiền số (chiếm tỷ trọng 3,73% toàn cầu), nhưng đứng thứ 2 về tỷ lệ người sở hữu tiền số khi chiếm 21,2% dân số, cao hơn Mỹ (ở vị trí thứ ba, 15,6%).
Tại Việt Nam cũng đã hình thành hệ sinh thái đầu tư và cung cấp dịch vụ liên quan tới tiền KTS, như các dự án blockchain, ví số, nền tảng hỗ trợ huy động vốn từ token/NFT (tài sản số), sàn giao dịch tài sản ảo, game tiền số và cả các quỹ đầu tư vào tiền số. Việt Nam cũng có sự hiện diện của các sàn giao dịch tiền ảo lớn trên thế giới như Binance, OKX, BYBIT, MEXC… cũng như các dự án blockchain quốc tế như Solana, Aptos, Sui, Near, Injective, Avalanche…
Lỗ hổng pháp lý, thất thu thuế từ tài sản số
Tuy tài sản số nói chung và tiền KTS nói riêng đã có những quy định nhất định, nhưng tại Việt Nam hầu như chưa có quy định nào (trừ tiền điện tử là tiền pháp định), tạo ra lỗ hổng pháp lý, thất thu thuế, rủi ro khá lớn…
Theo nhóm nghiên cứu, các tài sản số và tiền KTS chưa được công nhận là tài sản có giá trị pháp lý trong Luật Dân sự 2015. Tiền KTS cũng không được công nhận là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam.
Tuy nhiên, các cơ quan quản lý tại Việt Nam cũng đã bắt đầu thay đổi cách tiếp cận với vấn đề này. Tổ nghiên cứu về tài sản ảo, tiền ảo tại Bộ Tài chính đã được thành lập, nghiên cứu về tài sản ảo, tiền ảo cũng như kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động quản lý, giám sát liên quan.
Ngày 28.10.2021, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ban hành Quyết định 1813/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025, trong đó có nội dung "Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách về tiền kỹ thuật số quốc gia". Tuy nhiên, kết quả của những nghiên cứu này chưa có thông tin cụ thể.

TS Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng BIDV
Theo TS Cấn Văn Lực, những lổ hổng về hành lang pháp lý có thể phát sinh nhiều hệ lụy. Nổi bật trong số đó là hiện tượng lừa đảo, đầu tư đa cấp... Nhiều vụ lừa đảo đầu tư tiền KTS, tiền ảo đã diễn ra tại Việt Nam, với tổn thất rất lớn.
“Nhà đầu tư Việt nằm trong tốp quốc gia kiếm lời nhiều nhất từ tiền số, song thực tế cũng cho thấy, nhà đầu tư Việt nằm trong danh sách các quốc gia "sập bẫy" nhiều nhất về tiền ảo. Riêng đường dây lừa đảo tiền ảo, chứng khoán quốc tế của Mr.Pip gần đây đã lên tới hơn 200 triệu USD”, ông Lực nêu.
Trên cơ sở nghiên cứu xu hướng thế giới và thực trạng tiền kỹ thuật số tại Việt Nam như trên, nhóm nghiên cứu cho rằng xu hướng tiền KTS do NHTƯ phát hành (CBCD) sẽ ngày càng phổ biến. Vì vậy, Việt Nam cần sớm có nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc và có cách tiếp cận phù hợp với tiền KTS nói chung và tiền CBCD nói riêng, bao gồm cả tiền CBCD do nước khác phát hành và mong muốn được giao dịch, chấp nhận tại Việt Nam.
Tiếp theo, cần sớm xây dựng khung pháp lý cho tài sản số nói chung và tiền kỹ thuật số nói riêng, theo hướng có thử nghiệm, rồi đánh giá sơ kết, để quyết định nhân rộng hay thu hẹp.
Trước mắt, Chính phủ cũng cần sớm ban hành Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (Sandbox") trong hoạt động Fintech (công nghệ tài chính) trong lĩnh vực ngân hàng, sau đó là trong các lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư… vừa kiến tạo phát triển, vừa kiểm soát rủi ro.
“Việc cấp phép và giám sát chặt chẽ các sàn giao dịch tiền KTS (nhất là tiền ảo, tiền mã hóa) trong nước là cần thiết. Khi các sàn giao dịch trong nước hoạt động dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước, nhà đầu tư sẽ có môi trường giao dịch an toàn hơn. Đồng thời, điều này cũng hạn chế dòng tiền chảy ra nước ngoài thông qua các sàn giao dịch không rõ ràng”, ông Lực nói.
Thêm nữa, ông Lực cũng đề nghị nghiên cứu áp dụng chính sách thuế đối với giao dịch tiền KTS nói chung và tiền mã hóa nói riêng, vừa là biện pháp quản lý, vừa giúp tăng thu ngân sách; tuyên truyền và giáo dục về tài chính, đầu tư; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, bộ ngành để đảm bảo rằng các chính sách liên quan đến tiền KTS được thực thi một cách đồng bộ và hiệu quả.