Thực phẩm nông sản Việt Nam: Hơn 98% cơ sở sản xuất đạt chuẩn an toàn
Nhờ những nỗ lực kiểm soát, các chỉ số giám sát an toàn thực phẩm đối với nông lâm thủy sản đã cải thiện rõ rệt, đáp ứng yêu cầu khắt khe từ các thị trường như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản đang ngày càng hoàn thiện, góp phần bảo đảm sức khỏe người tiêu dùng. (Nguồn ảnh: TTXVN)
Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường - ông Phạm Văn Duy cho biết nhờ nỗ lực kiểm soát chặt chẽ, hơn 98% cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản trong nước đã được chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm; hơn 99% mẫu thực phẩm được giám sát đạt yêu cầu; trên 93% cơ sở ký cam kết tuân thủ quy định an toàn thực phẩm.
Những kết quả trên đã tạo tiền đề để nông lâm thủy sản Việt mở rộng xuất khẩu, chinh phục các thị trường “khó tính” như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc…
Nâng cao uy tín hàng hóa Việt Nam
Chia sẻ tại Tọa đàm “Nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm nông sản trong nước” do Báo Tiền Phong tổ chức sáng 23/9, ông Phạm Văn Duy nhấn mạnh an toàn thực phẩm trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản luôn được Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định là nhiệm vụ trọng tâm.
Về khía cạnh chính sách pháp luật (theo Luật An toàn thực phẩm và Nghị định số 15/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm), Bộ Nông nghiệp và Môi trường được giao kiểm soát 19 nhóm sản phẩm. Trong đó, việc quản lý tập trung vào sản xuất ban đầu và chế biến được phân công cụ thể cho các đơn vị chuyên ngành.
Cục Chất lượng Chế biến và Phát triển thị trường đóng vai trò nòng cốt, tham mưu xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn thực phẩm, bảo đảm phù hợp thông lệ quốc tế và thực tiễn trong nước.
Cùng với đó, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm cũng luôn được các cơ quan quản lý chuyên ngành duy trì nghiêm ngặt, với sự chuyển đổi từ thanh tra theo kế hoạch sang thanh tra đột xuất.
"Hằng năm, toàn ngành tổ chức khoảng 25.000 - 30.000 lượt thanh tra cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản, qua đó xử lý vi phạm và nâng cao ý thức tuân thủ của doanh nghiệp," ông Duy thông tin.
Theo Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, nhờ những nỗ lực kiểm soát, các chỉ số giám sát an toàn thực phẩm đã cải thiện rõ rệt. đáp ứng yêu cầu khắt khe từ các thị trường như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc.
“Đến nay, nhìn chung, hệ thống quản lý an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản đang ngày càng hoàn thiện, góp phần bảo đảm sức khỏe người tiêu dùng trong nước, đồng thời nâng cao uy tín hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế,” Phó Cục trưởng Phạm Văn Duy nhấn mạnh.
Về phía Bộ Công Thương, ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn - Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước, cho biết tính đến 31/12/2024, cả nước có 8.274 chợ, 276 trung tâm thương mại và 1.293 siêu thị. Trong đó, chợ và trung tâm thương mại là nơi tập trung nhiều cơ sở kinh doanh. Siêu thị cũng được xem là một cơ sở kinh doanh thực phẩm có quy mô lớn.
Trong thời gian qua, việc quản lý an toàn thực phẩm tại các cơ sở trên được thực hiện theo các quy định pháp luật liên quan đến cơ sở kinh doanh thực phẩm (như Nghị định số 77/2016/NĐ-CP; và các nghị định sửa đổi, bổ sung sau đó như Nghị định số 08/2018/NĐ-CP, Nghị định số 17/2020/NĐ-CP).
Với quy định trên, nhiều siêu thị và cơ sở kinh doanh thực phẩm trong trung tâm thương mại thuộc diện bắt buộc phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Tuy vậy, ông Tuấn cũng lưu ý tại các chợ truyền thống, đa số cơ sở kinh doanh vẫn chỉ dừng lại ở hình thức hộ kinh doanh nhỏ lẻ, nên nhiều nơi chưa đáp ứng đầy đủ điều kiện an toàn thực phẩm.
Liên quan đến việc kiểm soát, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước cho hay với các siêu thị và trung tâm thương mại - vốn chủ yếu thuộc sở hữu doanh nghiệp, tập đoàn lớn, công tác bảo đảm an toàn thực phẩm cũng thường được chú trọng hơn, nhằm bảo vệ thương hiệu.
Trong khi đó, tại chợ truyền thống, phần lớn cơ sở kinh doanh chủ yếu buôn bán hàng tươi sống, nên việc truy xuất nguồn gốc hàng hóa gặp khó khăn; kiến thức về an toàn thực phẩm của các tiểu thương còn nhiều hạn chế.

Ông Phạm Văn Duy - Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường. (Ảnh: BTC)
Muốn an toàn thì gốc rễ sản xuất phải sạch
Nhấn mạnh “muốn có thực phẩm an toàn thì gốc rễ phải bắt đầu từ sản xuất,” ông Nguyễn Quý Dương - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cho rằng đối với lĩnh vực trồng trọt, khâu sản xuất là yếu tố quan trọng nhất trong bảo đảm an toàn thực phẩm. Hiện Việt Nam hiện có khoảng 10 triệu hộ nông dân với diện tích rau 1,15 triệu ha và cây ăn quả khoảng 1,3 triệu ha.
Theo ông Dương, nguồn cung quan trọng trên không chỉ phục vụ tiêu dùng trong nước mà còn dành cho xuất khẩu, nên chất lượng sản phẩm luôn được cả người tiêu dùng nội địa và các thị trường nhập khẩu đặc biệt quan tâm.
Với quan điểm đó, từ năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành quy định và khuyến khích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, sau đó Chính phủ có chính sách hỗ trợ. Nhìn chung trên thị trường, hiện nay có hai hệ thống chứng nhận chính là VietGAP và GlobalGAP, song đây không phải là quy định bắt buộc mà chỉ mang tính khuyến khích, theo hướng thúc đẩy sản xuất an toàn, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường.
Tuy vậy, diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn trên còn rất khiêm tốn. Theo kết quả điều tra 5 năm một lần, công bố năm 2024, tổng diện tích được chứng nhận VietGAP mới đạt khoảng 150.000 ha cho 6 nhóm cây trồng, trong đó riêng rau chỉ đạt hơn 8.000 ha trên tổng số 1,15 triệu ha (chưa đến 1%). Với cây ăn quả, diện tích trồng theo tiêu chuẩn VietGAP đạt khoảng 76.000 ha.
“Nếu tính cả các chứng nhận khác, bao gồm GlobalGAP, tổng diện tích đạt khoảng 440.000 ha. Trong đó, rau cũng chỉ có hơn 8.400 ha, còn cây ăn quả đạt khoảng 78.000 ha. Đây là con số rất khiêm tốn so với quy mô sản xuất và nhu cầu tiêu thụ hiện nay. Rau là mặt hàng được người dân sử dụng hằng ngày, chủ yếu tiêu thụ nội địa nên có tỷ lệ sản xuất theo chuẩn an toàn cực thấp. Với trái cây, diện tích có chứng nhận nhiều hơn nhưng chủ yếu phục vụ xuất khẩu,” Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật thông tin.
Nêu giải pháp, ông Nguyễn Văn Mười - Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho rằng để đảm bảo an toàn thực phẩm, yếu tố cơ bản nhất là phải có quy trình sản xuất chuẩn, trong đó VietGAP là yêu cầu tối thiểu.
“Khi tiêu chuẩn tối thiểu không được đáp ứng, chúng ta đang buông lỏng chất lượng và người tiêu dùng phải gánh chịu hậu quả. Đã đến lúc cần có các biện pháp mạnh mẽ hơn để kiểm soát hàng hóa lưu thông trên thị trường,” ông Mười nói và nhấn mạnh điều người tiêu dùng quan tâm nhất là dư lượng hóa chất. Vì vậy, cơ quan bảo vệ thực vật cần quản lý chặt các sản phẩm bảo vệ thực vật theo đơn, không thể để tình trạng mua bán tùy tiện.
“Tùy từng loại thuốc, thời gian cách ly có thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng. Nếu người sản xuất không có ý thức, người tiêu dùng sẽ là người chịu thiệt. Do đó, cần tăng cường tuyên truyền và quản lý,” ông Mười chia sẻ.
Về thị trường, hiện nay ở trong nước có ba kênh tiêu thụ chính là bán lẻ hiện đại, chợ truyền thống và các cửa hàng rải rác. Vì vậy, thời gian tới, theo quan điểm của ông Mười thì cần phát triển các điểm bán tập trung để dễ quản lý, giảm rủi ro cho người tiêu dùng đồng thời hạn chế hình thức bán hàng rải rác, tràn lan trên vỉa hè, lề đường. Hoạt động bán lẻ cần được chú trọng hơn trong sự quản lý chặt chẽ với quy định nghiêm ngặt./.