Thủy điện và năng lượng tái tạo hưởng lợi sau El Nino, triển vọng nào cho các doanh nghiệp điện?
VCBS nhận định ngành điện Việt Nam đang có những dấu hiệu tích cực về sản lượng và vận hành, nhưng vẫn còn những thách thức về nguồn cung và giá nguyên liệu.
Nhiệt điện than dự kiến tiếp tục được huy động, thủy điện hưởng lợi khi EL Nino qua đi
Trong báo cáo cập nhật ngành điện mới đây, Chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho biết, theo kế hoạch vận hành thị trường điện, tổng sản lượng điện năm 2025 ước tính tăng trưởng khoảng 11,3% so với năm năm 2024. Các tháng mùa khô, sản lượng tăng trưởng bình quân khoảng 13%.
Viện Nghiên cứu quốc tế khí hậu và xã hội (IRI) dự báo, La Nina có thể tiếp tục ảnh hưởng thời tiết vào năm 2025 sau đó chuyển sang trạng thái trung tập. Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn quốc gia dự báo xác suất diễn ra La Nina trong giai đoạn tháng 1-3/2025 khoảng 55%-65%.
Trong năm 2025, VCBS cho rằng phụ tải đỉnh (Pmax) của hệ thống điện có thể lên tới 54,3 GW và miền Bắc có thể lên tới 28,2 GW. Công suất khả dụng nguồn của miền Bắc khoảng 29GW. Tỷ lệ sản lượng dự phòng tại khu vực phía Bắc trong giai đoạn tháng 3-6/2025 dao động từ 3-4%. Do đó tình hình cung ứng điện tại khu vực phía Bắc tương đối căng thẳng trong giai đoạn cao điểm.
Tại hệ thống điện phía Nam, Pmax có thể lên tới 23,6GW, công suất khả dụng ở mức 24,5 GW vào thời điểm tối. Nhóm phân tích đánh giá hệ thống điện miền Nam cơ bản đáp ứng nhu cầu phụ tải đỉnh.
Về công suất 2025, VCBS dự phóng công suất hệ thống điện đạt 94,2 GW (+7,8% so với hiện tại). Các nguồn mới đóng góp chủ yếu đến từ các nhiệt điện (2.954 MW), thủy điện (1.473 MW), năng lượng tái tạo (NLTT) (1.177 MW), nhập khẩu (1.160 MW).
Với nhiệt điện than, VCBS cho rằng nhiệt điện phía Bắc dự kiến tiếp tục được huy động cao vào nửa đầu năm 2025. Công suất nguồn điện hiện chưa có sự cải thiện đáng kể khi không có nhiều các dự án lớn được đưa vào vận hành trong 2024-2025. Các nhà máy điện tại miền Bắc chủ yếu là thủy điện và nhiệt điện than nên có khả năng trong nửa đầu năm 2025, thủy điện sẽ phải tích nước chuẩn bị cho cao điểm mùa khô và nhiệt điện sẽ được ưu tiên huy động.
Dự báo nhiệt điện khí sẽ tiếp tục gặp khó khi nguồn cung suy giảm và giá khí neo cao. Theo đó, các mỏ khí chủ lực hiện nay đã và đang trong giai đoạn suy giảm sau quá trình dài khai thác. Do đó sản lượng khí cung cấp cho điện tại khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ giảm dần. Nguồn cung khí cho sản xuất điện tại Đông Nam Bộ trong năm 2025 chỉ còn khoảng 2,06 tỷ m3, trong khi nhu cầu của cụm nhà máy tại đây khoảng 5 tỷ m3/năm.
Giá khí tại hàng rào nhà máy được dự báo duy trì từ 9-10 USD/mmBTU, giá bán điện PPA bình quân của các nhà máy nhiệt điện khí rơi vào khoảng 1.900-2.000 VND/kWh. Với mức giá này, nguồn điện khí khó thể cảnh tranh với các nguồn điện khác như thủy điện, nhiệt điện than.
Theo Kế hoạch thực hiện QHD8, tổng công suất điện LNG triển khai thêm trong thời gian tới là 22.524 MW. Trong đó, nhà máy điện LNG Nhơn Trạch 3&4 (NT3&4) dự kiến đi vào vận hành thương mại từ 2025. Theo thông tin từ PVN, đến cuối tháng 9/2024, tiến độ tổng thể của gói thầu EPC ước đạt 94%.
Về giá bán điện LNG, theo Quyết định số 1260/QĐ-BCT được Bộ Công thương ban hành ngày 27/5/2024, mức giá trần cho điện LNG là 2.590,85 VND/kWh (chưa bao gồm VAT).
Nhóm phân tích dự báo thị trường LNG hiện tại đối mặt với rủi ro cung vượt cầu trong những năm tới do Nhật Bản và Hàn Quốc hiện tại đang có kế hoạch mở lại hoặc xây mới các nhà máy điện hạt nhân để đảm bảo năng lượng. Do đó, giá LNG cho các nhà máy điện còn dư địa giảm trong những năm tới.
Cũng theo Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện 8, tổng công suất điện khí triển khai thêm trong thời gian tới là 7.240 MW. Chủ yếu nguồn khí sẽ đến từ nguồn mỏ khí Lô B và mỏ khí Cá Voi Xanh, trong đó Lô B trữ lượng ước tính 107 tỷ m3 và Cá Voi Xanh với trữ lượng ước tính 150 tỷ m3.
Tại nhóm thủy điện, VCBS nhận định, nhóm thủy điện vừa và lớn (>30MW) hiện đã cạn kiệt tiềm năng khai thác. Theo Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII, từ 2024-2030 sẽ có thêm khoảng 2GW thủy điện lớn được đưa vào khai thác. Chủ yếu là các dự án mở rộng: Ialy, Hòa Bình, Trị An.
Trong khi đó, công suất thủy điện nhỏ (<30MW) đến năm 2030 sẽ tăng thêm 4,5GW (tăng 85% so với hiện tại) tập trung chủ yếu tại khu vực Bắc Bộ. Một số doanh nghiệp niêm yết sở hữu các dự án nhà máy thủy điện nhỏ đang triển khai là: REE, PC1, GEG.
Với mảng NLTT, điện gió trên bờ và gần bờ có tổng công suất quy hoạch đến 2030 là 21,9GW, tổng công suất hiện tại là 3,1GW. Điện gió ngoài khơi có tổng công suất quy hoạch đến 2030 là 6GW, hiện tại chưa có dự án nào được cấp chủ trương đầu tư, giao nhà đầu tư thực hiện.
Đối với các dự án điện gió mới, VCBS nhận thấy tiến độ triển khai chưa có sự đột phá, chủ yếu các dự án đang trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện pháp lý. Đáng chú ý, REE đã M&A lại dự án Duyên Hải (48MW) đang trong giai đoạn chọn tổng thầu EPC, REE dự kiến sẽ COD vào năm 2026.
Ngày 4/12/2024, EVN đã trình bộ công thương khung giá điện gió năm 2025 của nhà máy điện chuẩn được tính toán theo thông tư 19/2023/TT-BCT. Giá bán điện của nhà máy điện gió trên biển và trên đất liền tăng nhẹ so với khung giá chuyển tiếp.
Theo Quy hoạch điện VIII, một số nguồn điện khác như điện sinh khối, điện rác, điện mặt trời và thủy điện tích năng cũng sẽ đóng góp vào hệ thống điện quốc gia.
Theo VCBS, ngày 30/11/2024, Quốc hội đồng ý tiếp tục thực hiện chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Cùng ngày, Quốc hội đã thông qua Luật Điện lực (sửa đổi), có vai trò quan trọng trong định hình khung pháp lý ngành điện, với một số nội dung nổi bật như điều chỉnh chính sách giá điện. Theo đó, để bảo đảm phản ánh chi phí sản xuất điện kinh doanh hợp lý. Giá bán điện thực hiện theo cơ chế thị trường có điều tiết giá của nhà nước, giảm dần tiến tới xóa bỏ bù chéo giá điện. Cải tiến cơ cấu biểu giá bán lẻ điện bao gồm giá điện có nhiều thành phần.
Điện khí (nội địa và LNG) sẽ ưu tiên phát triển điện khí trong nước, phát triển nhanh điện khí LNG, đưa điện khí trở thành nguồn cập điện năng quan trọng. Trong đó, cam kết tỷ lệ sản lượng điện tối thiểu được bảo đảm huy động đối với điện khí LNG, tính giá điện bán cho EVN theo giá nguyên liệu.
Triển vọng tích cực với doanh nghiệp nhiệt - thủy điện, mảng NLTT còn nhiều dư địa phát triển
Nhiệt điện Quảng Ninh (mã: QTP) ghi nhận tăng trưởng trong 9 tháng 2024 khá tích cực bất chấp ảnh hưởng của thời tiết bất lợi. Biên lợi nhuận gộp đạt 6,8% (cùng kỳ 5,9%) nhờ vào chi phí khấu hao, bảo dưỡng & khác giảm sút. Năm 2025, sản lượng của QTP được kỳ vọng tiếp tục duy trì ở mức cao khi nhu cầu tiêu thụ điện tăng trưởng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng nguồn điện. VCBS phân tích sản lượng nhiệt điện than huy động vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao khi miền Bắc bước vào mùa khô trong bối cảnh thủy điện phải tích nước chủ động chuẩn bị cho cao điểm mà khô và hiện tượng La Nina có thể kết thúc sớm hơn dự kiến vào tháng 3/2025.
Nhằm đảm bảo nguồn điện cho khu vực phía Bắc vào cao điểm nắng nóng trong năm, đơn vị phân tích cho rằng QTP sẽ được huy động sớm từ 6 tháng đầu năm 2025. Kỳ vọng giá than trộn giảm sau khi giá than thế giới giảm mạnh, từ năm 2023, QTP sử dụng 100% than pha trộn nhập, do đó việc giá than giảm sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh của QTP.
Còn tại Tổng Công ty điện lực dầu khí Việt Nam (mã: POW), dự án Nhơn Trạch 3-4 đi vào vận hành sẽ là yếu tố giúp sản lượng và doanh thu của POW tăng trưởng. Cụ thể, theo kế hoạch của POW NT2 và NT4 lần lượt vận hành thương mại vào tháng 4/2025 và tháng 7/2025. VCBS kỳ vọng sản lượng năm 2025 của POW sẽ đạt khoảng 18,7 tỷ kWh (+18%) nhờ vào sự đóng góp của NT3 và NT4 trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ điện của Việt Nam dự kiến tăng trên 10% trong năm 2025. Ngoài ra, có thể ghi nhận 1.000 tỷ đồng bồi thường bảo hiểm gián đoạn sản xuất kinh doanh do sự cố tại nhà máy Vũng Áng 1.
Với CTCP Tập đoàn PC1 (mã: PC1), chuyên gia kỳ vọng lượng backlog ký mới trong năm 2025 đạt khoảng 5.000 tỷ đồng với việc PC1 đẩy mạnh phát triển thị trường quốc tế và mảng xây dựng hạ tầng khu công nghiệp. Đồng thời, mảng năng lượng kỳ vọng sẽ hoạt động ổn định trong năm 2025 và bắt đầu tăng trưởng mạnh vào năm 2026 với hai nhà máy thủy điện mới. Trong năm 2025, VCBS kỳ vọng mảng năng lượng sẽ có sản khoảng 1.093 triệu kWh (tương đương năm 2024). Trong kịch bản PC1 đưa hai nhà máy thủy điện mới vận hành vào năm 2025, kỳ vọng sản lượng thủy điện của doanh nghiệp sẽ tăng trưởng khoảng 25% so với hiện tại.
Ngoài ra, PC1 còn có các dự án mới trong mảng bất động sản dân dụng và khu công nghiệp với nhiều triển vọng.
Tại CTCP Cơ điện lạnh (mã: REE), sản lượng điện của REE kỳ vọng tiếp tục phục hồi mạnh từ quý IV và ổn định năm 2025 vì nhu cầu tiêu thụ điện tăng trưởng trên 10% trong năm 2024, và hiện tượng La Nina được diễn ra từ cuối năm 2024. Trong mảng thủy điện, đơn vị phân tích dự báo sản lượng thủy điện của REE tăng nhẹ 1% so với cùng kỳ trong năm 2025 với sự đóng góp từ thủy điện Thác Bà 2. Tuy nhiên, khả năng nửa đầu năm các nhà máy thủy điện của REE sẽ tiếp tục tích nước chủ động để đảm bảo an ninh năng lượng như năm 2024. Với NLTT, VCBS kỳ vọng các nhà máy điện gió của REE tiếp tục hoạt động ổn định với hệ số công suất từ 32%-34%. Ngoài ra, mảng cho thuê văn phòng, bất động sản và thầu cơ điện của REE vẫn còn nhiều dư địa phát triển trong năm 2025.