Tiếng Việt giàu đẹp: 'Ruột đau chín chiều'
Chiều chiều ra đứng ngõ sau / Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều (ca dao)
Lâu nay đã có tranh luận về cụm từ "chín/ chín chiều" trong câu ca dao này. Có ý kiến cho rằng, nói đến "chín chiều" là ngầm ý nhớ đến công lao ơn nghĩa cha mẹ đã sinh ra và nuôi ta khôn lớn, người xưa thường dùng "cửu tự cù lao - chín chữ cù lao" là chín điều khó nhọc khi làm cha mẹ sinh dưỡng con cái.
Điều này nghe có lý, vì xưa nay, từ cù lao/ chín chữ cù lao hết sức phổ biến trong cách nói của người Việt: "Dạy rằng chín chữ cù lao/ Bể sâu không ví, trời cao không bì" (ca dao), "Thấy trong chín chữ trời cao ngất/ Chạnh nỗi đôi phương ruột héo hon" ("Hồng Đức quốc âm thi tập")… Chín chữ ấy là: 1. Sinh (sinh đẻ), 2. Cúc (nâng đỡ), 3. Phủ (ve vuốt, vỗ về), 4. Xúc (nuôi cho bú mớm), 5. Trưởng (nuôi cho khôn lớn), 6. Dục (dạy dỗ); 7. Cố (trông nom), 8. Phục (tùy tính tình mà dạy bảo), 9. Phúc (bảo vệ, che chở).
Nếu thế, tại sao chín/ chín chữ lại gắn liền với chín/ chín chiều một cách "bí hiểm" như thế? Hơn nữa trong câu ca dao này không hề có dữ liệu nào gợi cho ta sự liên tưởng đó. Đã thế, ta còn thấy vô lý ở chỗ câu ca dao này mở đầu bằng từ "chiều chiều", chỉ thời gian lặp đi lặp lại. Một khi nói "chiều chiều" là ngụ ý vấn đề, chuyện gì đó thường diễn ra vào mỗi buổi chiều. Mô-típ này quen thuộc trong ca dao: "Chiều chiều lại nhớ chiều chiều/ Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai", "Chiều chiều ra đứng bờ ao/ Trông cá, cá lặn; trông sao, sao mờ", "Chiều chiều ra đứng bờ sông/ Kẻ kéo ngửa ngực, người không động mình"… Vậy chẳng lẽ cô gái nào này chiều nào cũng lặp đi lặp lại tâm trạng "chín chiều ruột đau"? Vô lý.
Vậy chín chiều là gì?
Có ý kiến cho rằng: Là do thành ngữ "Cửu khúc hồi trường" 九曲回腸 của Trung Hoa, dùng tả trạng thái đau đớn hoặc lo lắng. Cửu là chín, ý nói số nhiều. Khúc là chỗ uốn cong, chỗ ngoặt. Hồi là trở lại. Trường là đùm ruột. Hình tượng "Cửu khúc hồi trường" này bắt nguồn từ hình dạng quanh co của đùm ruột, mượn đó để ẩn dụ chỗ rối rắm, phức tạp của cảm xúc nội tâm. Thành ngữ này thường dùng tả nỗi đau khổ của con người, hoặc cảnh tượng quanh co, khúc khuỷu của địa thế.
Gốc nó trong "Thơ hồi âm Nhậm thiếu khanh" (Báo Nhậm thiếu khanh thơ 報任少卿書) của Tư Mã Thiên đời Hán. Tác giả kể lại những trải nghiệm bất hạnh của mình, và bày tỏ nỗi đau khi phải sống trong tủi nhục để hoàn thành bộ Sử ký. Trong có câu "Trường nhứt nhựt chi cửu hồi" 腸一日而九回 (Thường ngày ruột đau chín bề).
Từ đó ông bà mình dịch thành "Ruột đau chín chiều".
Ý kiến này, xem ra hợp lý bởi "Truyện Kiều" cũng có câu miêu tả lúc lắng nghe Thúy Kiều: "So dần dây võ dây văn/ Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương", Kim Trọng "ngơ ngẩn sầu" đến độ: "Khi tựa gối khi cúi đầu/ Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày". "Truyện Kiều chú giải" của Lê Văn Hòe giải thích: "Chín khúc: Tức chín khúc ruột. Vò chín khúc: Ruột rối như tơ vò, ý nói nao nao, bối rối, đau buồn". Thế nhưng, khi nói "chín chiều" là từ "Cửu khúc hồi trường" mà ra, ta thấy gì? "Truyện Kiều" lấy cảm hứng từ "Thanh tâm tài nhân", vì thế, khi Nguyễn Du sử dụng từ "chín khúc" có liên quan đến điển tích trên là hợp lý. Còn với người Việt lại nghĩ khác, chứ hoàn toàn không theo quan niệm của người Trung Hoa.
Ở đây, con số 9 không phải con số cụ thể nhằm chỉ số lượng lớn nhất và cuối cùng trong dãy số cơ bản từ 1 đến 9. Mà, nó được người Việt sử dụng nhằm chỉ số lượng lớn, nhiều không thể xác định, thí dụ "Chín tầng trời", "Lúc nghèo thì chẳng ai nhìn/ Đến khi đỗ đạt chín nghìn anh em", "Chín đụn mười trâu, chết cũng hai tay chắp đít", "Đấy song đây cũng mây liền/ Đấy quan đây cũng chín tiền sáu mươi" v..v… Câu thơ "Khi vò chín khúc" trong "Truyện Kiều" cần được hiểu là ruột vò nhiều khúc, bao nhiêu khúc không thể xác định, chỉ biết là nhiều.
Dù đã rõ nghĩa của "chín" nhưng tại sao lại gắn liền với chiều/ chín chiều?
Không thể giải thích chiều là buổi chiều, là dáng vẻ, là theo ý người khác mà chính là "bề dài, bề ngang" ("Việt Nam tự điển", 1931); "bề, phía: chiều dài, chiều ngang, chiều sâu, chiều thuận, chiều nghịch, đường một chiều" ("Việt Nam tự điển", 1970). Ta hiểu, chiều nào cô gái này cũng ra đứng ở ngõ sau nhớ mẹ trong tâm trạng thương nhớ đến nỗi ruột đau nhiều chiều, ngổn ngang nhiều bề.
Sở dĩ từ "ruột" xuất hiện ngữ cảnh này bởi trong tiếng Việt cùng với bụng, dạ, tim, gan, lòng... ruột được sử dụng trở thành biểu tượng cho phạm trù tinh thần như chúng ta đã có câu: "Máu chảy ruột mềm", "Đau lòng xót ruột", "Ruột đau như cắt", "Bầm gan tím ruột", "Ruột rối như tơ vò" v.v…
Nguồn NLĐ: https://nld.com.vn/tieng-viet-giau-dep-ruot-dau-chin-chieu-196250920191344248.htm