Tìm giải pháp để ngành khoa học xã hội 'sáng' hơn?

Trước bối cảnh khoa học công nghệ phát triển, khoa học xã hội và nhân văn có nguy cơ mất dần vị thế trước khoa học tự nhiên. Trước sức ép đó, nếu không tự làm mới phù hợp với xu thế, nhóm ngành này có nguy cơ biến mất.

Tại diễn đàn khoa học đào tạo và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn (KHXHNV) trong bối cảnh mới do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) vừa tổ chức, PGS.TS Võ Xuân Vinh, Viện trưởng Viện Sử học thông tin, hiện nay, tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, đa số nghiên cứu là nhiệm vụ chính trị - khoa học, ít có nguồn thu xã hội hóa, dẫn đến khó huy động nguồn lực.

 Diễn đàn khoa học đào tạo và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong bối cảnh mới thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia trong nước

Diễn đàn khoa học đào tạo và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong bối cảnh mới thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia trong nước

Cùng với đó là cách nhìn nhận vai trò của ngành trong phát triển kinh tế xã hội đất nước. Ông Vinh cho biết, nhiều người từng đặt câu hỏi: Lĩnh vực KHXHNV đang đóng góp bao nhiêu phần trăm vào GDP? Theo ông, đây là cách tiếp cận không phù hợp.

Ông Vinh cho rằng đóng góp của KHXNNV ở những nghiên cứu cơ bản, nền tảng, nghiên cứu tư vấn, chính sách… vốn không thể đo bằng định lượng trong GDP. Ông Vinh ví dụ, từ nghiên cứu lịch sử đưa ra cảnh báo chính sách liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo giúp ổn định xã hội hay kịp thời dự báo những nguy cơ giúp tránh được những xung đột, bất ổn. Nếu chỉ nhìn bằng trọng số GDP thì KHXHNV, đặc biệt là nghiên cứu cơ bản, không có cơ hội phát triển.

PGS.TS Nguyễn Tuấn Cường (Viện Nghiên cứu Hán - Nôm) cho hay, trong nhận thức cũng như trong các chính sách hiện nay, khoa học và công nghệ hiện đại, là mảng “sáng”; KHXHNV là mảng “tối”, trong đó ít được quan tâm nhất là những ngành hiếm.

Ông Cường cho biết, những ngành KHXHNV hiếm được Trung Quốc đưa vào danh sách lãnh môn tuyệt học (những ngành có nguy cơ tuyệt chủng hoặc những ngành thể hiện căn tính của dân tộc). Quỹ dành cho những ngành này ở cấp nhà nước của họ khoảng 1.500 tỉ đồng/năm, chưa kể ngân sách địa phương hoặc của các trường.

Những người trẻ theo những ngành lãnh môn tuyệt học này được ưu tiên tuyệt đối từ cơ chế chính sách học tập, đến việc làm, thu nhập. Ông Cường cho rằng, những ngành hiếm trong lĩnh vực KHXHNV tại Việt Nam cũng cần có sự đầu tư của nhà nước như vậy.

Không thay đổi sẽ tự đào thải

PGS. TS Trương Đại Lượng, Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Văn hóa Hà Nội, chia sẻ khó khăn đối với sinh viên, giảng viên theo nhóm ngành KHXHNV là hạn chế về ngoại ngữ, năng lực số, nguồn tài liệu mở hạn chế... Yêu cầu các trường bắt buộc phải thay đổi định hướng đào tạo.

Trường ĐH Văn hóa Hà Nội từ đào tạo KHXHNV nghiên cứu thuần túy đã chuyển sang đào tạo liên ngành ứng dụng. Ví dụ, trước đây đào tạo ngành văn hóa đọc, rất ít sinh viên theo học nhưng nhà trường “bẻ ngang” sang các chương trình mới như văn hóa truyền thông, công nghiệp văn hóa, chính sách văn hóa đã thu hút đông đảo sinh viên.

“Nếu không thay đổi, các ngành học sẽ bị triệt tiêu. Ví dụ, Trường ĐH Văn hóa Hà Nội có hai ngành là văn hóa dân tộc thiểu số và gia đình học. Mặc dù hay, ý nghĩa, nhưng sinh viên ra trường không có việc làm, nhà trường phải tạm dừng đào tạo”, PGS Trương Đại Lượng nói.

 Các đại biểu chia sẻ ý kiến tại diễn đàn

Các đại biểu chia sẻ ý kiến tại diễn đàn

GS.TS Hoàng Anh Tuấn, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cho biết, có những ngành đặc thù dù khó nhưng không thể bỏ vì mang tính sứ mệnh quốc gia.

Ví dụ, để duy trì một năm đào tạo cho 5 cử nhân khảo cổ học, bên cạnh việc phải có bộ môn/khoa, việc thực tập, thực tế cũng phải đầu tư rất nhiều. Vì thế, chi phí trung bình để đào tạo 5 sinh viên này gấp khoảng 15 lần học phí.

Dẫu vậy, nhà trường vẫn kiên định với mục tiêu đào tạo chuyên sâu các ngành khoa học nền tảng, đồng thời mở rộng liên ngành để bám sát sự phát triển của xã hội.

Theo GS.TS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội (nay là Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội) nhiều người đặt câu hỏi KHXHNV “bay bổng”, không đóng góp vào sự tăng trưởng của GDP.

Ông Thuyết khẳng định, nhiệm vụ của KHXH&NV là nghiên cứu khoa học và đào tạo phục vụ mục tiêu phát triển của đất nước. Trước hết là nghiên cứu thay đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Hiện kinh tế đất nước chủ yếu khai thác tài nguyên thô, bất động sản, du lịch dịch vụ; chưa có các ngành kinh tế cạnh tranh với thế giới. KHXHNV phải làm thế nào để tác động làm thay đổi cơ cấu kinh tế hiện nay. Nếu cơ cấu kinh tế không thay đổi, đất nước khó phát triển.

Hay xu hướng trí tuệ nhân tạo hóa đời sống kinh tế xã hội, KHXHNV phải nghiên cứu nguy cơ của nó đối với sự tồn tại và phát triển đất nước. Hoặc các tác động đối với xã hội khi tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai

TS Nguyễn Thành Trung, Phó Vụ trưởng vụ Khoa học xã hội nhân văn và Tự nhiên, Bộ KH&CN đánh giá, thời điểm này, KHXHNV đang có bước ngoặt với nhiều điểm mới. Hiện tại, Nhà nước đầu tư cho các tổ chức khoa học công nghệ rất mạnh trong đó có 2 đại học quốc gia. Luật Khoa học Công nghệ ra đời, cơ bản tập trung đầu tư, nâng cao năng lực cho các tổ chức khoa học công nghệ.

Có thể nói các chính sách đang mở ra nhiều cơ hội cho các nhà khoa học KHXHNV. Trước đây, chi cho KHCN khoảng 12.000 tỉ đồng/năm. Riêng năm 2025, triển khai Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, ngân sách cấp riêng các hoạt động công nghệ bổ sung thực hiện nhiệm vụ của nghị quyết là 25.000 tỉ đồng. Nhưng vấn đề hiện tại, các địa phương đặt hàng không nhiều nên thừa ngân sách. Ông Trung nhấn mạnh đến việc các đề tài nghiên cứu phải gắn với thực tiễn, giải quyết bài toán thực tiễn để khắc phục hạn chế nghiên cứu khoa học trước đây.

Nghiêm Huê

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/tim-giai-phap-de-nganh-khoa-hoc-xa-hoi-sang-hon-post1796691.tpo