Tín dụng ngân hàng chiếm hơn 57% tổng cung ứng vốn trong nền kinh tế 9 tháng đầu năm

TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh nền kinh tế vẫn phụ thuộc quá mức vào tín dụng ngân hàng, chiếm tới 57,2% tổng cung ứng vốn tính đến 9 tháng đầu năm 2025. Với mức tăng trưởng tín dụng hiện tại, dự kiến quy mô tín dụng sẽ đạt khoảng 147% GDP vào cuối năm nay.

Đại diện NHNN: Áp lực cung ứng vốn cho nền kinh tế tiếp tục ở mức cao

Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026 với chủ đề "Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2026 – 2030" diễn ra ngày 16/12, bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) nhấn mạnh, bám sát các chủ trương, định hướng, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai đồng bộ các giải pháp về tiền tệ và tín dụng nhằm thực hiện đồng thời các mục tiêu vừa kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống, vừa hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

"Trong đó, các giải pháp tín dụng, tín dụng theo ngành, lĩnh vực được triển khai quyết liệt, góp phần tăng tiếp cận vốn tín dụng và phù hợp hơn với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế", bà Hà Thu Giang khẳng định.

 Phiên chuyên đề Tài chính – Ngân hàng trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026 (VEPF) ngày 16/12. Ảnh BTC.

Phiên chuyên đề Tài chính – Ngân hàng trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026 (VEPF) ngày 16/12. Ảnh BTC.

Vụ trưởng Vụ Tín dụng cho biết, đến ngày 27/11/2025, dư nợ tín dụng đạt trên 18,2 triệu tỷ đồng, tăng 16,56% so với cuối năm 2024. Cơ cấu tín dụng chuyển dịch phù hợp với cơ cấu các ngành kinh tế. Tín dụng hướng vào lĩnh vực ưu tiên, trong đó một số lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn như lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (chiếm khoảng 23%) và doanh nghiệp nhỏ và vừa (chiếm khoảng 19%); tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân giai đoạn vừa qua tăng lần lượt là 17,51% và 19,91%).

Tuy nhiên, bà Hà Thu Giang cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động tín dụng ngân hàng đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Áp lực cung ứng vốn cho nền kinh tế tiếp tục ở mức cao trong bối cảnh thị trường tài chính phát triển chưa cân xứng, trong khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường chứng khoán còn gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy đầy đủ vai trò là kênh cung ứng vốn trung và dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế.

Theo bà Giang, nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia là rất lớn tạo áp lực không nhỏ đối với các tổ chức tín dụng trong việc cân đối nguồn vốn và quản trị rủi ro kỳ hạn, nhất là khi nguồn vốn cho vay chủ yếu vẫn là tiền gửi có kỳ hạn ngắn, hiện chiếm khoảng 80% tổng tiền gửi của hệ thống.

Bên cạnh đó, một số chương trình tín dụng theo ngành, lĩnh vực còn gặp khó khăn trong quá trình triển khai, điển hình như Chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết 33/NQ-CP của Chính phủ, do nguồn cung nhà ở xã hội còn hạn chế.

Trước bối cảnh đó, để góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu "hai con số" trong giai đoạn 2026-2030, bà Hà Thu Giang cho biết, NHNN sẽ tiếp tục đẩy mạnh triển khai các giải pháp tín dụng bám sát chủ trương, định hướng, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ.

Trọng tâm là tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách về hoạt động tín dụng ngân hàng; tích cực tổ chức triển khai các nghị quyết, chủ trương lớn của Đảng về phát triển nông nghiệp, khoa học công nghệ, chuyển đổi số, kinh tế tư nhân, y tế, giáo dục, năng lượng.

Bà Giang cũng nhấn mạnh tầm quan trọng và cấp thiết của việc xây dựng các giải pháp phát triển thị trường vốn, trái phiếu doanh nghiệp, tạo kênh dẫn vốn trung, dài hạn hiệu quả cho nền kinh tế, giảm áp lực cho hệ thống ngân hàng; đồng thời, xây dựng, hoàn thiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; tiếp tục thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ các nút thắt trong đầu tư, kinh doanh để tăng khả năng hấp thụ vốn tín dụng của nền kinh tế, tạo điều kiện cho các TCTD có định hướng đầu tư tín dụng phù hợp.

Tín dụng ngân hàng chiếm hơn 57% tổng cung ứng vốn trong 9 tháng đầu năm

Cũng tại phiên chuyên đề: "Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2026 – 2030", TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV và Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách của Thủ tướng Chính phủ cho biết, mặc dù Việt Nam sở hữu tiềm năng huy động tài lực lớn với tỷ lệ tiết kiệm đạt 37,3% GDP (năm 2024), cao so với nhiều nước trong khu vực, việc phân bổ và huy động vẫn tồn tại nhiều điểm nghẽn. Điểm nghẽn lớn nhất là sự mất cân đối trong cơ cấu vốn: nền kinh tế vẫn phụ thuộc quá mức vào tín dụng ngân hàng, chiếm tới 57,2% tổng cung ứng vốn tính đến 9 tháng đầu năm 2025.

Quy mô tín dụng ngân hàng/GDP của Việt Nam (135,7% năm 2024, dự kiến 147% cuối 2025) thuộc nhóm cao, tiềm ẩn rủi ro hệ thống. Trong khi đó, các kênh vốn dài hạn khác như thị trường cổ phiếu, trái phiếu còn nhỏ, đặc biệt là thị trường trái phiếu với quy mô dư nợ rất khiêm tốn so với khu vực. Thị trường chứng khoán cũng đối mặt với các thách thức về rủi ro, thiếu minh bạch và mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính (margin) tăng nhanh (tăng từ 125.000 tỷ đồng cuối quý I/2023 lên gần 383.000 tỷ đồng cuối quý III/2025), tiềm ẩn nguy cơ khi thị trường đảo chiều.

Trước thực trạng này, TS Cấn Văn Lực đã đề xuất một số nhóm giải pháp trọng tâm.

Thứ nhất, cần đẩy nhanh hoàn thiện thể chế hệ thống tài chính, đặc biệt là ban hành khung pháp lý cho các mô hình mới như tài chính xanh, tiền kỹ thuật số, trung tâm tài chính quốc tế và thị trường carbon.

Thứ hai là phát triển thị trường tài chính cân bằng, tập trung vào thị trường vốn và phái sinh tài chính, đa dạng hóa định chế tài chính (quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, REITs); quyết tâm nâng hạng thị trường chứng khoán theo lộ trình để giảm áp lực lên tín dụng ngân hàng.

Cùng đó, cần tập trung vào việc ổn định vĩ mô, tăng cường niềm tin và cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh để khơi thông nguồn lực từ người dân và tổ chức. Về quản lý, cần giảm công cụ hành chính, tăng cường tuân thủ nguyên tắc thị trường (như áp dụng Basel III), đồng thời nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách và phát triển tổ chức tài chính phi ngân hàng.

Đặc biệt, phải tăng cường năng lực quản lý, giám sát hệ thống tài chính, quan tâm rủi ro hệ thống và đẩy nhanh tháo gỡ các dự án tồn đọng để giải phóng nguồn vốn; chuẩn hóa và phối hợp chặt chẽ giữa Chính sách Tài khóa và Chính sách Tiền tệ, tiến tới xây dựng một Khung chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia thống nhất.

Cuối cùng, để kích hoạt dòng vốn cho Đổi mới Sáng tạo và chuyển đổi xanh, cần sớm thành lập các Quỹ hỗ trợ chuyển đổi xanh, Quỹ đầu tư mạo hiểm và Quỹ ĐMST.

Hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số

Phát biểu Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026 với chủ đề “Kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, chuyển đổi xanh trong kỷ nguyên số” vào chiều ngày 16/12, ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, cho biết để đạt tốc độ tăng trưởng GDP 10%/năm giai đoạn 2026-2030, nền kinh tế cần một lượng vốn đầu tư phát triển khổng lồ.

Tuy nhiên, cơ cấu cung ứng vốn hiện nay đang bộc lộ rủi ro lớn khi tín dụng ngân hàng vẫn chiếm tới 48-50% tổng vốn đầu tư, đưa tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP có nguy cơ vọt lên mức 160-200% nếu không có sự điều chỉnh.

Để giải quyết bài toán này, theo ông Hiển, giải pháp chiến lược là phải thay đổi tư duy huy động nguồn lực tài chính. Trọng tâm không còn nằm ở “room” tín dụng ngân hàng, mà là cuộc dịch chuyển sang thị trường vốn dài hạn.

Chẳng hạn, đặt mục tiêu nâng hạng tín nhiệm quốc gia lên mức “Investment Grade” để thu hút dòng vốn rẻ và chất lượng. Đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu (IPO), đặc biệt là cho các doanh nghiệp công nghệ số và dịch vụ, nhằm cân bằng với kênh tín dụng ngân hàng. Ngoài ra, thay đổi tư duy về vai trò của các quỹ đầu tư và dần cởi trói các quy định để hình thành các quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ hạ tầng, và đặc biệt là các quỹ đầu tư mạo hiểm cho đổi mới sáng tạo.

Song quan trọng hơn, theo đại diện Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, hiệu quả sử dụng vốn mới là yếu tố quyết định. Để đạt mức tăng trưởng 10% với nguồn lực vốn đầu tư khoảng 40% GDP, hệ số ICOR giảm xuống 4,7, tốc độ tăng lao động khoảng 8,7% thì năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) buộc phải đóng góp trên 57% vào tăng trưởng chung, cao hơn đáng kể so với giai đoạn trước.

Đây là áp lực rất lớn với nền kinh tế, đồng nghĩa với việc khoa học công nghệ cần được đẩy mạnh và phát huy hiệu quả. Vì vậy, cần gỡ vướng cơ chế tài chính cho khoa học công nghệ, chấp nhận rủi ro và thí điểm mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong nghiên cứu và phát triển (R&D).

Đặc biệt, để kích hoạt không gian mới, ông Nguyễn Đức Hiển cho rằng Việt Nam cần “cởi trói” thể chế để giải phóng nguồn lực. Các giải pháp bao gồm: Triển khai quyết liệt việc kết nối liên thông dữ liệu về đất đai, thuế và thủ tục đầu tư nhằm cắt giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp; Tập trung tháo gỡ pháp lý cho các dự án chậm triển khai, đưa nguồn lực đất đai và vốn đang bị đóng băng trở lại nền kinh tế…

Đông Bắc

Nguồn Doanh Nhân VN: https://doanhnhanvn.vn/tin-dung-ngan-hang-chiem-hon-57-tong-cung-ung-von-trong-nen-kinh-te-9-thang-dau-nam.html