Tổ chức, cá nhân được cấp không quá 5 giấy phép thăm dò với một loại khoáng sản
Sáng 29/11, với 446/448 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 93,11% Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Địa chất và khoáng sản.
Trước khi các ĐBQH bấm nút thông qua, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày Báo cáo tóm tắt về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản.
Về phân nhóm khoáng sản, tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã được rà soát, bổ sung, chỉnh lý các quy định liên quan đối với loại khoáng sản này trong quy định về chính sách của Nhà nước, thăm dò khoáng sản chiến lược, quan trọng, khai thác khoáng sản chiến lược, quan trọng; không đấu giá quyền khai thác khoáng sản đối với một số khu vực khoáng sản chiến lược, quan trọng; giao Bộ Tài nguyên và Môi trường trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục khoáng sản chiến lược, quan trọng.
Về quy hoạch khoáng sản nhóm I, quy hoạch khoáng sản nhóm II, phương án quản lý về địa chất, khoáng sản, ông Lê Quang Huy cho biết, tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã sửa đổi tên quy hoạch khoáng sản tại khoản 1 Điều 12 là quy hoạch khoáng sản nhóm I và quy hoạch khoáng sản nhóm II để bảo đảm ngắn gọn, bao hàm các nội dung liên quan.
Đồng thời đã rà soát, chỉnh lý đồng bộ tên quy hoạch tại các quy định liên quan đến quy hoạch khoáng sản trong dự thảo Luật.
Để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý tên gọi quy hoạch khoáng sản tại nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Quy hoạch trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã chỉnh lý không quy định cụ thể về điều chỉnh quy hoạch khoáng sản trong dự thảo Luật này. Việc điều chỉnh quy hoạch tỉnh (trong đó có phương án quản lý về địa chất, khoáng sản), quy hoạch khoáng sản nhóm I, quy hoạch khoáng sản nhóm II, thẩm quyền điều chỉnh đều phải tuân thủ pháp luật về quy hoạch (khoản 4 Điều 12).
Đồng thời, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý nội dung điều chỉnh quy hoạch theo trình tự, thủ tục rút gọn trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu.
Về nguyên tắc cấp giấy phép thăm dò khoáng sản (Điều 43), tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã bổ sung tại điểm h khoản 1: "Mỗi tổ chức, cá nhân được cấp không quá 5 giấy phép thăm dò đối với một loại khoáng sản, không kể giấy phép thăm dò khoáng sản đã hết hiệu lực. Trường hợp cấp quá 5 giấy phép cho cùng một tổ chức phải được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bằng văn bản".
Về giấy phép khai thác khoáng sản, có ý kiến đề nghị điều chỉnh quy định thời gian cấp phép là không quá 50 năm và thời gian gia hạn không quá 15 năm.
Về nội dung này, UBTVQH báo cáo, khoáng sản là tài sản công, việc thực hiện dự án đầu tư khai thác khoáng sản phải có cách tiếp cận khác so với dự án đầu tư thông thường khác. Việc quy định thời hạn của giấy phép khai thác khoáng sản, bảo đảm thuận lợi cho tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản nhưng cần tính toán giảm thiểu các tác động không tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, giấy phép khai thác khoáng sản đều có thời hạn tối đa là 30 năm và được gia hạn một số năm. Quy định này cũng phù hợp với điều kiện thực tế là vòng đời của công nghệ khai thác khoáng sản sau 30 năm thường đã lạc hậu và cũng cần đầu tư đổi mới.
Điểm a khoản 4 Điều 56 dự thảo Luật đã quy định giấy phép khai thác khoáng sản có thời hạn không quá 30 năm và có thể được gia hạn nhiều lần, nhưng tổng thời gian gia hạn không quá 20 năm, tổng cộng là 50 năm, bằng với thời gian thực hiện dự án đầu tư thông thường theo quy định của pháp luật về đầu tư.
Trên thực tế, có nhiều dự án sau 10 năm đã hoàn thành việc khai thác, kết thúc dự án. Ngoài ra, dự thảo Luật quy định việc cấp lại giấy phép khai thác khoáng sản trong trường hợp giấy phép khai thác khoáng sản đã hết thời gian khai thác khoáng sản (kể cả thời gian gia hạn) nhưng còn trữ lượng.
Do vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho phép được giữ quy định về thời hạn giấy phép khai thác khoáng sản như tại điểm a khoản 4 Điều 56, đồng thời, đề nghị Chính phủ chỉ đạo để bảo đảm thuận lợi, dễ dàng về thủ tục gia hạn giấy phép.