TOP 10 mẫu xe xấu xí không nên rời khỏi dây chuyền lắp ráp

Thiết kế có thể mang tính chủ quan nhưng khi đến lúc phải bỏ ra số tiền tương đối lớn để mua một chiếc ô tô, chúng ta đều muốn “vợ 2” trông đẹp - hoặc ít nhất là không quá… xấu.

Bất chấp những ý định tốt đẹp của người tiêu dùng, các công ty ô tô thường bỏ lỡ mục tiêu và tạo ra các mẫu nằm trong danh sách những chiếc xe “xấu xí”. Điều đó cũng có nghĩa là doanh số bán hàng giảm xuống, mặc dù một số mẫu xe kỳ lạ vẫn tồn tại trong nhiều năm.

Mặc yêu hay ghét, dưới đây là 10 mẫu xe “xấu xí” nhất thế giới.

Citroën Ami 6 (1961 - 1970)

Citroën Ami là xe gia đình 4 cửa, dẫn động cầu trước, phân khúc B được nhà sản xuất ô tô của Pháp, Citroën sản xuất và tiếp thị từ năm 1961 - 1978.

Ami được cung cấp theo kiểu xe saloon và estate/wagon/break trong 2 thế hệ, Ami 6 và Ami 8. Chiếc saloon Ami 8 fastback đời sau có cửa sổ sau dốc, trái ngược với cửa sổ sau dốc ngược trước đây của chiếc Ami 6 notchback.

Hơn 1.840.396 chiếc đã được ra đời trong toàn bộ quá trình sản xuất. Ami và Citroën Dyane đã được thay thế bằng Citroën Visa và Citroën Axel.

Nhà sản xuất ô tô Pháp Citroen rất cần một chiếc xe tầm trung có thể tự đứng vững trước các đối thủ như Volkswagen và Renault vào những năm 60. Thay vào đó, hãng đã sản xuất Ami, với cửa sổ sau nghiêng kỳ lạ không thực sự hấp dẫn người mua.

Đây thực sự là một động thái cắt giảm chi phí vì nắp cốp có thể được gắn ở đó để giữ nguyên trạng thái mở, không cần thanh chống hay lò xo đối trọng. Dù trường hợp nào đi nữa, kết quả là "thiết kế vụng về nhất từ trước đến nay".

Chrysler PT Cruiser (2001 - 2010)

Chrysler PT Cruiser là mẫu xe nhỏ gọn được công ty Chrysler của Mỹ sản xuất từ năm 2001 - 2010. Được giới thiệu là một chiếc xe hatchback 5 cửa, một biến thể mui trần 2 cửa cũng được sản xuất từ năm 2005 - 2008.

Ban đầu được lên kế hoạch là mẫu xe Plymouth, PT Cruiser cuối cùng đã được tiếp thị là một chiếc Chrysler khi Plymouth ngừng sản xuất. Với mục đích gợi lên tính thẩm mỹ của những năm 1930, ngoại thất của PT Cruiser được thiết kế bởi Bryan Nesbitt.

Mẫu xe này đã được nâng cấp trung gian cho mẫu xe năm 2006. Nội thất được chú ý vì có trần xe cao, ghế ngồi điểm H cao, cấu hình hành lý, hàng hóa linh hoạt nhờ có giá để hàng hóa phía sau nhiều tầng và ghế sau mà người dùng có thể gập, lật hoặc tháo rời. PT Cruiser được sản xuất tại Mexico và Áo tại các nhà máy Toluca Car Assembly và Eurostar Automobilwerk.

Đến cuối tháng 7 năm 2010, sản lượng trên toàn thế giới đã đạt 1,35 triệu. Trong bảng tên của nó, PT là viết tắt của "Vận chuyển cá nhân”. PT là mã sản phẩm của PT Cruiser dành cho các đơn vị sản xuất tại Mexico.

PT Cruiser vẫn là một trong những mẫu xe gây tranh cãi nhất, cứ mỗi người mua thích kiểu dáng retro mạnh mẽ của những mẫu xe này thì có 5 người… cười khúc khích về việc mẫu xe trông “khó coi” như thế nào.

Ford Taurus (1996 - 1999)

Ford Taurus thế hệ thứ 3 là mẫu xe được Ford tiếp thị từ những năm 1996 - 1999.

Trong khi khung gầm vẫn được giữ nguyên, thiết kế lại đã mang đến cho Taurus ngoại thất hoàn chỉnh đầu tiên kể từ khi ra mắt năm 1986. Nằm giữa Ford Contour nhỏ gọn và Ford Crown Victoria cỡ lớn, Taurus thế hệ thứ 3 một lần nữa được cung cấp dưới dạng xe sedan 4 cửa và xe station wagon 5 cửa, được tiếp thị cùng với Mercury Sable.

Ngược lại với bản cập nhật tiến hóa năm 1992 của thế hệ thứ 2, thế hệ thứ 3 đã tìm cách tái tạo thiết kế hàng đầu trong phân khúc được giới thiệu bởi Taurus 1986, cũng để đáp lại sự ra mắt năm 1992 của những chiếc xe Chrysler LH. Sau khi Taurus ra mắt năm 1986, dòng xe này đã có thêm 2 đối thủ cạnh tranh đáng kể: Toyota Camry và Honda Accord.

Là chiếc Ford đầu tiên kết hợp đèn pha tròn với vỏ kiểu composite, Taurus thế hệ thứ 3 đã áp dụng hình bầu dục cho nhiều yếu tố thiết kế của ngoại thất và nội thất, bao gồm các lỗ lưới tản nhiệt, đèn hậu, cửa sổ sau (đối với xe sedan Taurus và xe ga Taurus/Sable), các lỗ cửa sổ bên cho Taurus/Sable.

Dòng xe được tung ra bán vào cuối năm 1995; trái ngược với sự chấp nhận gần như toàn cầu đối với Taurus thế hệ đầu tiên, Taurus thế hệ thứ 3 đã nhận được những phản ứng trái chiều từ người tiêu dùng và được gọi là “chiếc xe buồn nhất từng được sản xuất”.

Nissan Cube (2009 - 2014)

Nissan Cube là một chiếc MPV mini được sản xuất bởi hãng xe Nissan từ năm 1998 - 2019.

Ban đầu chỉ được bán tại Nhật Bản, sau đó Cube đã được ra mắt tại các thị trường Bắc Mỹ từ năm 2009 - 2014 và tại các thị trường châu Âu từ năm 2009 - 2011. Tại Nhật Bản, nó chỉ dành riêng cho các đại lý Nissan Red Stage.

Đây là một sự thay thế chở hàng lớn hơn một chút cho Nissan Micra hatchback. Trong khi việc sản xuất cho thị trường Bắc Mỹ đã kết thúc vào năm 2014, Cube dành cho thị trường Nhật Bản vẫn tồn tại cho đến tháng 12/2019.

Nissan luôn muốn chiếc Cube crossover góc cạnh của mình nổi bật, nhưng cuối cùng lại nhận được sự chú ý vì tất cả những lý do “sai lầm”. Tờ Los Angeles Times gọi nó là "một chiếc hộp xấu xí ghét không khí... một sự nhạo báng, một sự chế giễu, một sự nhại lại tai hại của khí động học ô tô".

Pontiac Trans Sport (1990 - 1996)

Là mẫu xe tải nhỏ được Pontiac tiếp thị từ những năm 1990 - 1999. Trans Sport đánh dấu sự khởi đầu của một quá trình chuyển đổi rộng hơn khi chuyển từ xe sedan và xe ga thành xe dành cho gia đình.

Tương tự như Ford Aerostar và Toyota Previa, Trans Sport sử dụng thiết kế thân xe "hộp đơn", với mui xe hòa vào độ dốc của kính chắn gió. Phần nhô ra phía trước dài (do khung gầm dẫn động cầu trước) của thân xe không được đón nhận, dẫn đến việc chiếc xe tải nhỏ này được gọi là "Dustbuster" (theo tên máy hút bụi cầm tay). Trạng thái này được chuyển sang 2 chiếc xe tải nhỏ khác do các thương hiệu khác nhau sản xuất.

Được chỉ định chính thức là xe nền tảng U, cả 2 thế hệ Trans Sport đều có chung đặc điểm cơ khí và thành phần với Pontiac Grand Prix nền tảng W. Chiếc Trans Sport cuối cùng của thế hệ này đã rời khỏi dây chuyền lắp ráp vào ngày 27/6/1996, trùng với thời điểm đóng cửa nhà máy lắp ráp North Tarrytown ngay sau đó.

Vanguard CitiCar (1974 - 1977)

CitiCar là mẫu xe được sản xuất từ năm 1974 - 1977 bởi Sebring-Vanguard, Inc có trụ sở tại Sebring, Florida, Mỹ. Sau khi được Commuter Vehicles, Inc mua lại, Sebring-Vanguard đã sản xuất Comuta-Car và Comuta-Van tương tự từ năm 1979 - 1982.

Tính đến tất cả các biến thể của CitiCar, tổng cộng có 4.444 chiếc được sản xuất cho đến năm 1979.

Lấy cảm hứng từ thiết kế xe golf của Club Car và một phần là để ứng phó với cuộc khủng hoảng nhiên liệu những năm 1970, một công ty có tên Sebring-Vanguard đã sản xuất chiếc xe điện đầu tiên của mình, Vanguard Coupe (đôi khi được gọi là EV Coupe), vào năm 1974. Người sáng lập và Chủ tịch công ty Robert G. Beaumont, làm việc với nhà thiết kế Jim Muir, đã đưa ra CitiCar sau khi chiếc EV Coupe trước đó không thành công ngay lập tức. Tuy nhiên, nỗ lực thứ 2 này vẫn dựa trên nhiều tính năng cơ học của Club Car.

CitiCar có 3 mẫu. Cả 3 mẫu đều có mặt trước chéo phẳng, mái phẳng và mặt sau phẳng gần như thẳng đứng. Những chiếc coupe đầu tiên, được chỉ định là mẫu SV-36, có động cơ 2,5 mã lực (1,9 kW) và bộ pin 36V. Những chiếc coupe mẫu thứ hai, được chỉ định là mẫu SV-48, có động cơ 3,5 mã lực (2,6 kW) và bộ pin 48V, cùng một số cải tiến nhỏ.

Trong những năm cuối sản xuất, biến thể mẫu thứ 3 của Citicar, đôi khi được gọi là CitiCar chuyển tiếp hoặc mẫu 1976 1/2, có hệ thống truyền động được cải tiến với động cơ 6 mã lực (4,5 kW) và thân xe được thay đổi một chút để kết hợp các lỗ thông hơi sưởi ấm ở bên hông xe và một số có kiểu cửa được cải tiến với chốt tốt hơn và cửa sổ trượt được lắp cố định.

"Đó là một chiếc xe golf được tôn vinh, chắc hẳn rất khốn khổ khi lái trong điều kiện giao thông thực tế", một nhận định về mẫu xe của CarBuzz.

Fiat Multipla (1998 - 2004)

Là mẫu xe 6 chỗ do hãng sản xuất ô tô Italia Fiat cho ra mắt từ năm 1998 - 2010. Dựa trên Bravo/Brava, Multipla ngắn và rộng hơn so với các đối thủ.

Mẫu xe có 2 hàng 3 chỗ ngồi, trong khi các đối thủ MPV nhỏ gọn khác có 2 chỗ ngồi ở hàng ghế trước. Multipla ngắn hơn Bravo/Brava 3 cửa mà nó dựa trên, nhưng nó cung cấp chỗ ngồi và thể tích chở hàng lớn hơn. Việc bán hàng bắt đầu tại Italia vào tháng 11/1998.

Giống như một số xe Fiat hiện đại khác, Multipla sử dụng lại tên của một loại xe trước đó, trong trường hợp này là biến thể "Multipla" của xe Fiat 600 được sản xuất trong những năm 1950 và 1960.

Multipla đã trải qua một cuộc đại tu lớn vào tháng 3/2004, trong nỗ lực loại bỏ kiểu dáng ban đầu để có vẻ ngoài giản dị hơn. Điều này nhằm mục đích thu hút thêm người mua nhưng không nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình.

Tờ Telegraph xếp hạng mẫu xe ở vị trí thứ 2 trong danh sách 100 chiếc xe “xấu xí” nhất vào tháng 8/2008 và nói rằng: "Bị chế giễu vì sự nhạt nhẽo trong sản phẩm của mình trong những năm 1980 và đầu những năm 1990, Fiat đã dám bắt đầu suy nghĩ vượt ra ngoài khuôn khổ. Tuy nhiên, trong trường hợp này, hãng chỉ đơn giản là thêm bánh xe vào hộp."

Huyndai Tiburon (2000 - 2001)

Được biết đến ở châu Âu với tên gọi Hyundai Coupé, là một chiếc coupe thể thao được ra mắt bởi nhà sản xuất Hyundai của Hàn Quốc từ năm 1996 - 2008.

Tên "Tiburon", một biến thể nhẹ của "tiburón", từ tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "cá mập", là tên được đặt cho sản xuất xe ở Bắc Mỹ, Úc, New Zealand, Nam Phi và Áo. Nó được gọi là Hyundai Coupe ở một số thị trường châu Âu và Indonesia.

Mẫu xe này đã được phát hành 2 thế hệ (RC) trong suốt vòng đời của nó và trong thời gian đó, các thế hệ này đã trải qua các lần nâng cấp định kỳ. Các lần nâng cấp này đã cố gắng giữ cho mẫu xe luôn cập nhật với nhiều cải tiến về an toàn và sự kết hợp của những thay đổi về kiểu dáng bên ngoài và bên trong.

RD Tiburon đã được sản xuất trong 5 năm từ 1996 - 2001. GK Tiburon được giới thiệu vào năm 2002 (như một mẫu xe năm 2003) và kết thúc sản xuất vào năm 2008 trước khi được thay thế bằng Hyundai Veloster.

Người tiêu dùng đã đưa mẫu xe vào danh sách "Mười mẫu xe nâng cấp tệ nhất mọi thời đại" và đánh giá chiếc Tiburon là "một quái vật mắt côn trùng... trông giống như nó chui ra từ đầm lầy đen tối".

Isuzu VehiCross (1999 - 2001)

Là một chiếc SUV nhỏ gọn của Isuzu được sản xuất từ năm 1997 - 2001, xe có chung nhiều thành phần với Trooper, bao gồm cả động cơ V6 3,2L và 3,5L sản sinh công suất 215 mã lực tại 5.400 vòng/phút với mô-men xoắn 230 lb⋅ft (312 N⋅m) tại 3.000 vòng/phút. Xe cũng có hệ dẫn động 4 bánh Torque on Demand (TOD) do BorgWarner sản xuất.

Đây là một chiếc xe crossover 2 cửa nhỏ, thể thao với kiểu dáng bên ngoài “hung hãn” bao gồm phần nhô ra ngắn, tư thế hướng về phía trước, "răng" titan trên lưới tản nhiệt, một miếng chèn mui xe màu đen và lớp ốp nhựa màu đen trên toàn bộ nửa dưới của xe. Chiếc VehiCROSS ở thị trường Mỹ được trang bị bánh xe đánh bóng 16 inch vào năm 1999 và bánh xe mạ crôm 18 inch trong suốt thời gian còn lại của quá trình sản xuất. Phiên bản Nhật Bản được trang bị hợp kim 16 inch với nắp chụp trung tâm mạ crôm.

VehiCROSS ban đầu được ra mắt như một mẫu xe ý tưởng tại Triển lãm ô tô quốc tế Tokyo năm 1993. Phiên bản sản xuất cuối cùng của Nhật Bản vào năm 1997 đáng chú ý ở chỗ xe sản xuất ra đời với rất ít thay đổi về thiết kế và trong thời gian rất ngắn.

Thành tích này đạt được thông qua việc sử dụng khuôn dập thân xe bằng gốm giá rẻ và tái sử dụng các bộ phận Isuzu có sẵn. Mẫu xe được thiết kế để giới thiệu công nghệ off-road của Isuzu và là một trong số ít xe được xuất xưởng với bộ giảm xóc ống đơn có buồng giãn nở nhiệt bên ngoài, một công nghệ thường dành riêng cho đua xe mô tô địa hình.

"Không ai muốn sở hữu một chiếc SUV 3 cửa trông giống như một kẻ trốn thoát khỏi phim trường", tạp chí Car and Driver đã từng đánh giá về mẫu xe này.

Chevrolet Caprice (1991 - 1992)

Là một chiếc xe cỡ lớn do Chevrolet sản xuất tại Bắc Mỹ cho các mẫu xe từ năm 1965 - 1996. Đây là mẫu xe ở thế hệ thứ 4 của Chevrolet.

Được giới thiệu vào giữa năm 1965 như một gói trang trí sang trọng cho Impala mui cứng 4 cửa , Chevrolet cung cấp đầy đủ các mẫu xe Caprice cho các năm 1966 và các năm tiếp theo bao gồm một chiếc coupe "mui cứng chính thức" cùng một chiếc xe ga Estate. Các mẫu xe từ năm 1971 - 1976 là những chiếc Chevrolet lớn nhất được chế tạo. Việc sản xuất kết thúc vào năm 1996.

Có nhiều lời kể khác nhau về nguồn gốc của tên Caprice. Một người nói rằng nó được Bob Lund, Tổng giám đốc bán hàng của Chevrolet, đặt ra theo tên một nhà hàng sang trọng mà ông thường lui tới ở Thành phố New York. Một người khác nói rằng, mẫu xe được đặt theo tên Caprice Chapman, con gái của giám đốc điều hành ô tô James P. Chapman.

Vỏ bánh xe đầy đủ giống với Super Sport năm đó, nhưng biểu tượng hình nơ bướm Chevy đã thay thế biểu tượng "SS" ở giữa trục quay. Tấm ốp trang trí phía sau màu đen của Super Sport cũng được sử dụng, nhưng không có biển tên "Impala SS".

Nội thất có ghế ngồi và viền cửa bằng vải và vinyl cao cấp hơn (cũng như thảm dày hơn, cao cấp hơn), viền gỗ óc chó giả trên bảng điều khiển và tấm ốp cửa, dây kéo trên cửa và đèn tiện lợi bổ sung. Một mui xe hoàn toàn bằng vinyl là tùy chọn. Động cơ V8 4,6L, 195 mã lực là tiêu chuẩn, cũng như cần số gắn trên cột cho hộp số sàn 3 cấp.

Doanh số của mẫu xe cũng đáng thất vọng và nó chỉ tồn tại được vài năm trước khi được nâng cấp. "Nó trông giống như một bồn tắm úp ngược", một công nhân tại GM thừa nhận về mẫu Chevrolet Caprice đời 1991.

Nam Anh

Nguồn Thương Gia: https://thuonggiaonline.vn/top-10-mau-xe-xau-xi-khong-nen-roi-khoi-day-chuyen-lap-rap-post557636.html