Trẻ vị thành niên mang thai, bác sĩ BV Nhi Trung ương cảnh báo nhiều hệ lụy
Theo thống kê của Bộ Y tế, tỉ lệ trẻ vị thành niên mang thai tăng liên tục qua các năm, kéo theo nhiều hệ lụy, thậm chí tăng nguy cơ tử vong.
Nguy cơ phải đối mặt khi mang thai ở tuổi vị thành niên
TS.BS Đỗ Minh Loan, Trưởng khoa Sức khỏe Vị thành niên, BV Nhi Trung ương cho biết: Tại đây đã từng tiếp nhận điều trị một trẻ gái 14 tuổi, mang thai và không có kiến thức làm mẹ ở tuổi vị thành niên (VTN).
VTN là những trẻ từ 10 đến 19 tuổi. Vào thời điểm này, trẻ phát triển các chức năng sinh dục, sinh sản, nhu cầu tình dục xuất hiện và chưa đủ kỹ năng để kiểm soát ham muốn tình dục. Cùng với sự thiếu hiểu biết về chu kỳ kinh nguyệt, cơ chế thụ thai, các biện pháp tránh thai; Quan hệ tình dục không chuẩn bị, không mong muốn; Quan hệ tình dục trước hôn nhân, sống thử trước hôn nhân.
Đồng thời, trẻ thiếu tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, chưa được giáo dục đầy đủ về sức khỏe giới tính, cha mẹ còn hời hợt về việc giáo dục cho con em… dẫn đến nguy cơ mang thai ngoài ý muốn rất cao và để lại nhiều hệ lụy trong tương lai.
“
Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê của Vụ sức khỏe Bà mẹ trẻ em (Bộ Y tế), tỉ lệ trẻ vị VTN mang thai trong tổng số người mang thai tăng lên liên tục qua các năm. Năm 2010 là 2,9%, năm 2011 là 3,1%, năm 2012 là 3,2%. Tương ứng tỉ lệ phá thai ở lứa tuổi này lần lượt là 2,2%, 2,4% và 2,3%.
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trên thế giới, ít nhất 10 triệu trường hợp mang thai ngoài ý muốn trong 1 năm ở những trẻ nữ VTN. Các biến chứng trong quá trình mang thai và sinh đẻ là nguyên nhân tử vong hàng đầu đối với các trẻ gái 15-19 tuổi
”
Theo cảnh báo của BS. Loan, hàng loạt nguy cơ trẻ VTN phải đối mặt khi mang thai. Nếu tiếp tục giữ thai và sinh đẻ, việc mang thai ở tuổi này ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, nguy cơ tử vong mẹ vẫn còn cao so với các bà mẹ sinh con ở tuổi trưởng thành. Mẹ dễ bị thiếu máu, tiền sản giật, đẻ non, sẩy thai, chuyển dạ đình trệ, bất tương xứng thai khung chậu.
Bên cạnh đó, tỷ lệ tử vong trẻ em sinh ra do các bà mẹ tuổi VTN trong năm đầu cao hơn so với các bà mẹ sinh con ở tuổi trưởng thành. Con của các bà mẹ VTN thường có tỉ lệ nhẹ cân, bệnh tật và tử vong cao gấp nhiều lần.
Về mặt kinh tế – xã hội, khi có thai ở tuổi VTN phải gián đoạn việc học hành, khó khăn về kinh tế và không kiếm được việc làm, dẫn trẻ VTN vào con đường bế tắc. Hạnh phúc gia đình có thể bị rạn nứt, dễ lâm vào cảnh éo le, ảnh hưởng đến tương lai của trẻ VTN. Làm mẹ sớm dễ bị căng thẳng và khủng hoảng tâm lý.
Mang thai ở tuổi VTN cũng kéo theo nguy cơ mất an toàn và nâng tỷ lệ phá thai ở tuổi này, ảnh hưởng đến tâm lý và sức khỏe sinh sản sau nay của trẻ.
Chỉ "cấm" là không đủ
Theo khuyến cáo của BS. Loan, vị thành niên là giai đoạn thay đổi về thể chất và tâm sinh lý. Vì thế, khi có con trong độ tuổi VTN, cha mẹ nên quan tâm đến con cái nhiều hơn. Các bậc cha mẹ nên dành nhiều thời gian trò chuyện tâm sự với con những định hướng đúng đắn về tình cảm. Cha mẹ và nhà trường nên phối hợp để trang bị cho trẻ những kiến thức về sức khỏe sinh sản, giáo dục giới tính cho các em.
Bên cạnh đó, ngành chức năng cần tăng cường giáo dục, chăm sóc sức khỏe tiền hôn nhân, các vấn đề liên quan đến sức khỏe sinh sản, hướng dẫn các biện pháp tránh thai phù hợp, hạn chế tình trạng phá thai và ngăn ngừa các bệnh lây qua đường tình dục. Đặc biệt, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa nhà trường - gia đình - xã hội. Từ đó, giúp các em được trang bị đầy đủ kiến thức về giới tính và sức khỏe sinh sản, góp phần nâng cao chất lượng dân số trong tương lai.
Còn theo BS. Phan Chí Thành, BV Phụ sản Trung ương: "Chúng ta nên đối mặt với thực tế, nên chấp nhận sự thật rằng, việc các bạn học sinh quan hệ tình dục trong lúc đi học, ở độ tuổi dưới 18 bây giờ là phổ biến, không còn ít gặp như giai đoạn trước. Cha mẹ cần cung cấp thông tin cho trẻ một cách kịp thời về đời sống tình dục và những nguy cơ của nó”.
Chính vì vậy, BS. Thành nhấn mạnh, nội dung giáo dục giới tính cần tập trung vào 4 vấn đề. Thứ nhất, giáo dục để hiểu được thế nào là hoạt động tình dục. Thứ hai, giúp trẻ nhận thức về tình dục an toàn, gồm tránh thai và phòng tránh bệnh lý lây truyền qua đường tình dục. Thứ ba, hướng dẫn trẻ làm thế nào để nhận biết nếu có hậu quả (là mang thai hay mắc các bệnh lý lây truyền qua đường tình dục). Thứ tư, cách xử trí khi gặp những tình huống này.