Trung Quốc tuyên bố tìm ra cách phát hiện tàu ngầm tối tân 'Sói biển' của Mỹ
Một nhóm nhà khoa học Trung Quốc tuyên bố đã phát triển công nghệ theo dõi vệt sóng biển để phát hiện các tàu ngầm tối tân Seawolf biệt danh 'Sói biển' của Mỹ.
Các nhà khoa học tại Đại học Bách khoa Tây Bắc ở thành phố Tây An của Trung Quốc tuần trước tuyên bố đã mô hình hóa các sóng Kelvin, vùng nhiễu động dạng chữ V do tàu ngầm tạo ra khi di chuyển, và xác định được sự thay đổi của từ trường ở khu vực loại chiến hạm này hiện diện.
Theo các nhà nghiên cứu, sóng Kelvin sẽ phát sinh từ trường yếu khi ion trong nước biển bị nhiễu loạn và tương tác với từ trường Trái Đất.
Thông qua thử nghiệm mô phỏng, họ có thể dựa vào sự thay đổi của từ trường để xác định kích thước, độ sâu và tốc độ của tàu ngầm.
Nhóm nghiên cứu đánh giá tàu ngầm hạt nhân lớp Seawolf tối tân của Mỹ sẽ tạo ra từ trường có cường độ 10⁻¹² tesla khi di chuyển với tốc độ khoảng 45 km/h và ở độ sâu 30 m, nằm trong phạm vi phát hiện của cảm biến từ trường gắn trên máy bay săn ngầm.
Tàu ngầm hiện đại có độ ồn rất thấp, nhờ ứng dụng nhiều công nghệ hạn chế và triệt tiêu âm thanh, nhằm đối phó các hệ thống định vị thủy âm.
Trong khi đó, từ trường tồn tại rất lâu sau khi tàu ngầm đi qua và để lại dấu vết cho phép lực lượng săn ngầm phát hiện, theo nhóm nghiên cứu Trung Quốc.
Truyền thông Trung Quốc cho rằng công nghệ mới công bố mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Bắc Kinh, nhất là tại các vùng biển xung quanh nước này.
Giới chuyên gia quân sự Mỹ từ lâu cho rằng các mẫu tàu ngầm hiện đại nhất như lớp Seawolf có thể đi qua vùng biển gần Trung Quốc mà không bị phát hiện.
Khi nói tới loại tàu ngầm tấn công hạt nhân mạnh nhất của Mỹ không thể không nhắc tới Seawolf. Lớp tàu ngầm được đặt biệt danh là "sói biển" hay "F-22 của Mỹ trong lòng đại dương".
Tàu ngầm hạt nhân lớp Seawolf cũng được đánh giá là đi trước thời đại của hải quân Mỹ.
Trong khi những tàu ngầm hạt nhân thông thường chỉ hoạt động ở độ sâu 300-400m thì tàu ngầm hạt nhân Seawolf lại được thiết kế để lặn ở độ sâu tối đa lên tới 900m.
Không những vậy, "sói biển" di chuyển gần như im lặng
Tàu ngầm này tàng hình trước các hệ thống dò tìm sonar của đối phương.
Độ ồn của tàu ngầm Seawolf thấp hơn 10 lần so với tàu Los Angeles phiên bản cải tiến và thấp hơn tới 70 lần so với lớp Los Angeles phiên bản đầu tiên, và thấp hơn 100 lần so với tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc.
Lịch sử phát triển của loại tàu ngầm này khá li kỳ. Cuối những năm 1980, Liên Xô nhận được thông tin tình báo rằng Hải quân Mỹ có thể lần theo dấu vết các tàu ngầm của họ thông qua tiếng ồn lớn phát ra từ chân vịt.
Kết quả là Liên Xô đã tìm kiếm các loại máy móc tiên tiến để chế tạo ra các loại chân vịt tàu ngầm tốt nhất.
Năm 1981, công ty Toshiba của Nhật đã bán dây chuyền sản xuất chân vịt cho Liên Xô thông qua công ty Kongsberg của Na Uy.
Đến giữa những năm của thập niên 1980, các tàu ngầm hạt nhân mới của Liên Xô bắt đầu áp dụng công nghệ này có hiệu quả.
Tàu ngầm lớp Akula mới của Liên Xô đã giảm được tiếng ồn đáng kể. Một nguồn tin chính phủ nói với Los Angeles Times rằng “các tàu ngầm của Liên Xô hoạt động bớt ồn hơn sau khi sử dụng động cơ của Toshiba"
Với các cải tiến mới, tàu ngầm lớp Akula có thể hoạt động ở độ sâu tối đa tới 600 m, trong khi các tàu ngầm hàng đầu của hải quân Mỹ - tàu ngầm lớp Los Angeles, chỉ có thể hoạt động ở độ sâu khoảng 200 m.
Đối phó với mối đe dọa của tàu ngầm Akula, Hải quân Mỹ đã “đáp lại” bằng tàu ngầm tấn công hạt nhân lớp Seawolf.
Tàu ngầm “sói biển” được thiết kế với khung thân hợp kim thép HY-100 dày 5cm, cải thiện khả năng chịu áp lực khi lặn sâu.
Thép HY-100 cũng cứng hơn 20% so với thép HY-80 được sử dụng ở lớp Los Angeles. Kết quả là, tàu ngầm lớp Seawolf có khả năng lặn sâu tới 600 m và độ sâu “tới hạn” là 900 m.
Tàu ngầm lớp Seawolf được thiết kế ngắn hơn một chút so với các loại tàu ngầm trước đó với chiều dài 107m, chiều rộng 12m, trọng lượng lên tới hơn 12.150 tấn.
Tàu ngầm sử dụng lò phản ứng hạt nhân Westinghouse S6W, vận hành 2 turbine hơi nước với tổng công suất 52.000 mã lực.
Seawolf cũng là loại tàu ngầm đầu tiên của Mỹ sử dụng hệ thống đẩy phản lực nước để di chuyển thay vì chân vịt.
Điều này giúp cho chúng có độ hoạt động cực êm dưới nước. Đặc tính kỹ thuật này mãi mới được sử dụng với tàu ngầm hạt nhân lớp Virginia để giảm độ ồn khi hoạt động.
Với cách di chuyển độc đáo này, tàu ngầm Seawolf có thể đạt tốc độ 18 hải lý/h khi nổi và 35 hải lý/h khi lặn.
Khi cần hoạt động bí mật, tàu ngầm lớp Seawolf sẽ duy trì tốc độ khoảng 20 hải lý/h, lúc này chúng gần như vô hình trước các hệ thống dò âm của tàu ngầm đối phương.
Tàu được trang bị bộ định vị thủy âm khẩu độ rộng BQQ 5D bố trí ở mũi tàu và một số thành phần gắn xung quanh thân tàu. Bên cạnh đó chúng còn được tích hợp hệ thống BQS 24 để phát hiện thủy lôi.
Về trang bị vũ khí, tàu ngầm lớp Seawolf được trang bị 8 ống phóng ngư lôi với cơ số đạn mang theo 50 quả.
Ngoài ra chúng còn trang bị tên lửa chống hạm Harpoon và tên lửa hành trình Tomahawk. Đây thực sự là một quái vật đại dương, giúp Mỹ tạo uy thế trước đối thủ.
Mặc dù Seawolf là tàu ngầm hạt nhân vượt trội cả về hiệu quả chiến đấu, nhưng tư tưởng Chiến tranh Lạnh ở thời điểm phát triển dự án chấp nhận hiệu quả cao đi kèm chi phí “khủng” để giải quyết những mối đe dọa lớn.
Hiệu quả vượt trội tất nhiên cũng đi kèm với chi phí vượt trội.
Chương trình Seawolf ước tính tốn khoảng 33 tỷ USD cho 12 chiếc tàu ngầm, một chi phí không thể chấp nhận được trong bối cảnh Liên Xô tan rã năm 1991 và mối đe dọa của tàu ngầm Akula không còn.
Cuối cùng cũng giống như chương trình phát triển tiêm kích F-22 Raptor bị đóng lại khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Mỹ chỉ chế tạo 3 chiếc tàu ngầm Seawolf với tổng chi phí 7,3 tỷ USD.