Trung Quốc và bài toán chuyển dịch năng lượng (Kỳ II)
Khả năng phục hồi kinh tế trong nước, tự chủ về công nghệ, ổn định và an ninh là những mục tiêu chính sách quan trọng nhất của Trung Quốc sẽ được cân bằng trong quá trình chuyển đổi năng lượng hiện nay.
Tự lực và phát triển là những ưu tiên đẻ thực hiện chuyển dịch năng lượng
Nguồn cung cấp năng lượng đáng tin cậy, giá cả phải chăng và đáp ứng các nhu cầu cơ bản là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển năng lượng của Trung Quốc và là điều cần thiết để duy trì khả năng phục hồi và các mục tiêu an ninh. Trong khi việc sử dụng than trong nước phù hợp với những mục tiêu này, nó đi ngược lại với các ưu tiên loại bỏ carbon. Nhìn chung, cần có sự phối hợp giữa các chính sách hỗ trợ năng lượng phi hóa thạch, cắt giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch và thúc đẩy các lĩnh vực công nghiệp công nghệ sạch như một động lực tăng trưởng trong tương lai. Năng lực công nghiệp và sản xuất lấy lợi thế về môi trường và phát triển carbon thấp làm định hướng chiến lược đang được hưởng chính sách thuận lợi của chính phủ trung ương khi coi lĩnh vực công nghiệp loại bỏ carbon và năng lượng sạch là động lực tăng trưởng. Trung Quốc coi lĩnh vực công nghiệp loại bỏ carbon và năng lượng sạch là động lực tăng trưởng tương lai.
Hiện chuỗi cung ứng được kiểm soát trong nước được duy trì nhờ khả năng tự cung cấp công nghệ, đổi mới sáng tạo và giáo dục nhân tài từ lâu đã trở thành trọng tâm của quá trình hiện đại hóa Trung Quốc. Chính sách nhằm mục đích tăng cường quyền tự chủ kinh tế và khả năng phục hồi kinh tế trong nước trước các động lực thị trường và căng thẳng thương mại. Sự thống trị của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ sạch không phải chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, đó là bởi kết quả của sự đầu tư bền vững vào R&D và sản xuất.
Trung Quốc hiện có thế mạnh về khai thác và chế biến các khoáng sản chiến lược và các nguyên tố đất hiếm quan trọng cho công nghệ năng lượng (ví dụ như pin, tấm pin mặt trời, turbinenăng lượng gió và máy điện phân) và thuận lợi cho việc định vị công nghiệp về công nghệ loại bỏ carbon. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn phụ thuộc nhiều vào các khoáng sản quan trọng ở nước ngoài, chẳng hạn như nickel, colbalt và đồng là những khoáng sản cần thiết cho năng lượng mới và đang thực hiện đầu tư khai thác và kim loại ở nước ngoài để đảm bảo nguồn năng lượng tương tự (GFDC, 2023).
Việc lưu thông kép thể hiện tham vọng tự cung tự cấp cùng với chuỗi cung ứng được kiểm soát hoàn toàn. Trong khi lưu thông quốc tế và theo đuổi chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu là nguồn thu chủ yếu, chính phủ trung ương, như được nêu rõ trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 14, nhằm mục đích tăng cường đáng kể tỷ trọng tiêu dùng trong GDP. Tiêu dùng nội địa của Trung Quốc và nhu cầu thị trường đối với dịch vụ cũng như sản phẩm do Trung Quốc sản xuất (lưu thông nội địa) sẽ trở thành động lực lớn hơn cho tăng trưởng kinh tế trong tương lai, nhờ sự chênh lệch thấp hơn giữa mức sống ở thành thị và nông thôn. Thị trường trong và ngoài nước sẽ củng cố lẫn nhau, trong đó thị trường trong nước là trụ cột.
Hiện an ninh năng lượng là cơ sở để thúc đẩy năng lượng tái tạo cũng như mở rộng điện hạt nhân và than đá của Trung Quốc. Mục tiêu là độc lập về năng lượng và việc chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo sẽ khiến Trung Quốc ít phụ thuộc hơn vào năng lượng nhập khẩu trong những thập kỷ tới. Trong thời gian tới, quá trình chuyển đổi năng lượng sẽ tiến triển song không ảnh hưởng đến an ninh nguồn cung. Với tình trạng thiếu điện sắp xảy ra, chính phủ trung ương nhận thấy nhiệt điện và than là nguồn đảm bảo cho nguồn cung, sự cân bằng và tính linh hoạt, mặc dù mức sử dụng nhà máy than thấp. Trong khi an ninh năng lượng là cơ sở để thúc đẩy năng lượng tái tạo nhằm duy trì nguồn tài nguyên trong nước thì các nguồn năng lượng phi hóa thạch sẽ chỉ thay thế dần dần các nguồn hóa thạch.
Những chính sách gần đây cũng báo hiệu tham vọng mở rộng việc sử dụng than để thay thế dầu và khí đốt nhập khẩu (lần lượt là hơn 70% và 40% nhập khẩu trong nguồn cung cấp năng lượng chính vào năm 2022) Vì lý do an ninh năng lượng, nhiều chính sách khác nhau, từ cơ chế công suất cho các nhà máy điện đốt than đến giá đảm bảo cho điện mặt trời và điện năng lượng gió trên đất liền, đều khuyến khích các công nghệ điện như năng lượng tái tạo biến đổi, than đá và hạt nhân và không khuyến khích phát điện bằng khí đốt. các nhà máy điện, trong khoảng từ 5% đến 20% chi phí. Trong tương lai, các nỗ lực loại bỏ carbon có thể sẽ tạo ra sự phụ thuộc mới, chẳng hạn như nhập khẩu ammonia.
Chính sách thúc đẩy chuyển dịch năng lượng
Tăng cường bảo vệ môi trường tại nhà: Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đã có tác động nghiêm trọng đến môi trường của Trung Quốc; ô nhiễm không khí, nguồn nước và chất lượng nước, mất đất và đa dạng sinh học là một trong những thách thức chính. Để giải quyết tình trạng suy thoái về môi trường, khái niệm “văn minh sinh thái” đã bắt nguồn từ nỗ lực của Trung Quốc nhằm tích hợp các mục tiêu môi trường với các hoạt động kinh tế của con người.
Khái niệm này đã trở thành nền tảng trong chiến lược phát triển quốc gia của Trung Quốc trong thời đại mới, nhấn mạnh phát triển kinh tế với phương châm “chất lượng hơn số lượng” và đảo ngược tình trạng suy thoái không khí, nước và đất bị tổn hại do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng. Hiện các kế hoạch hành động và ngăn ngừa ô nhiễm đã được tiến hành trong các lĩnh vực này (không khí, nước, đất) lần lượt vào các năm 2013, 2015 và 2016 với các biện pháp và mục tiêu bổ sung đã được chính phủ trung ương thông qua cho năm 2020 và năm 2030.
Chính sách cho các chương trình nghị sự tiếp theo: Chiến lược và kế hoạch hành động bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia Trung Quốc năm 2010 (2011-2030) đã hướng dẫn các kế hoạch và chương trình về bảo tồn đa dạng sinh học song nó phải đối mặt với những thách thức từ quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh chóng, làm tăng áp lực lên tài nguyên nước, môi trường sống và hệ sinh thái. Tháng 1/2024, Trung Quốc đã ban hành Chiến lược và kế hoạch hành động bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia (2023-2030). Tập trung vào tình trạng ô nhiễm không khí đạt đỉnh điểm đáng kể vào năm 2013 và 2014, Trung Quốc đã tuyên bố “cuộc chiến chống ô nhiễm” và mở rộng các chính sách nhằm giải quyết nồng độ chất ô nhiễm. Kế hoạch hành động kiểm soát và ngăn ngừa ô nhiễm không khí (APPCAP, 2013) đã thiết lập một kế hoạch giảm thiểu nhiều chất gây ô nhiễm bằng cách đặt ra các lệnh cấm đối với các cơ sở vận chuyển và đốt than như trong công nghiệp, điện lực và sưởi ấm dân cư. FYP 14 cũng đã nhấn mạnh việc thúc đẩy phát triển xanh vì “sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên” bằng cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chất lượng cao và bảo vệ môi trường tiêu chuẩn cao, đồng thời tái khẳng định tham vọng loại bỏ ô nhiễm không khí và nước nghiêm trọng ở các thành phố và mong muốn mở rộng độ che phủ rừng lên trên 24% diện tích đất liền của Trung Quốc.
Chính sách liên quan đến kiểm soát ô nhiễm không khí: Hiện Trung Quốc có tham vọng thay thế than phát thải cao bằng khí đốt tự nhiên phát thải thấp hơn để giảm lượng khí thải địa phương. Các chính sách chính được xem xét trong ETO của DNV bao gồm giới hạn tiêu thụ than, tăng tốc chuyển đổi từ than sang khí đốt và từ than sang điện, và các dự án trang bị thêm (khử lưu huỳnh để kiểm soát SO₂, khử nitrat để kiểm soát NOx và loại bỏ bụi để kiểm soát ô nhiễm môi trường -PM) trong các lĩnh vực công nghiệp chính. Trong lĩnh vực giao thông vận tải, Trung Quốc theo đuổi việc phát thải nghiêm ngặt hơn kiểm soát, khuyến khích các phương tiện sử dụng năng lượng mới và hạn chế bán xe ô-tô động cơ đốt trong (ICE) cũng như mở rộng quy mô giao thông công cộng.
Những cải thiện về chất lượng không khí đã được ghi nhận với việc giảm hàng năm trong các biện pháp đo mức ô nhiễm trung bình trên toàn quốc của Trung Quốc, chẳng hạn như mức PM2.5. Tuy nhiên, ô nhiễm không khí lại tăng trở lại (2023) (Qiu, 2023). Điều này một phần là do điều kiện thời tiết không thuận lợi song phần lớn được giải thích là do lượng khí thải tăng lên do sự thay đổi trong sản xuất nhiệt điện và sản lượng công nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp nặng vốn đều phụ thuộc vào than.
Trung Quốc sẽ tiếp tục củng cố các biện pháp ngày càng nghiêm ngặt để cải thiện chất lượng không khí thông qua tăng cường các biện pháp kiểm soát ô nhiễm không khí: (i) Kiểm soát mức tiêu thụ than, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và đặt ra các mục tiêu cao nhất về phát thải carbon; ví dụ, tất cả các địa phương sẽ phải kết hợp các dự án thay thế nồi hơi đốt than vào quy hoạch sưởi ấm đô thị. (ii) Nâng cấp xanh các lĩnh vực công nghiệp và thay thế năng lượng sạch được thực hiện trong các lò công nghiệp để thay thế than bằng điện và khí đốt. (iii) Thu hẹp năng lực sản xuất lạc hậu trong các lĩnh vực công nghiệp chủ chốt (tức là những lĩnh vực có lượng chất gây ô nhiễm và phát thải khí nhà kính GHG cao hơn đáng kể so với mức trung bình của lĩnh vực) và thúc đẩy phát triển năng lượng sạch, carbon thấp và hiệu quả. (iv) Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang hệ thống giao thông xanh, tập trung vào đường sắt và các phương tiện sử dụng năng lượng mới, đồng thời xác định tỷ lệ bao phủ cho các trạm sạc xe điện EV.
Làm sâu sắc hơn các chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu: Sự thành công trong quá trình loại bỏ carbon của Trung Quốc là điều tối quan trọng để đạt được các mục tiêu về ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Trung Quốc là quốc gia có phát thải carbon lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 1/3 lượng khí thải toàn cầu và vượt tổng lượng khí thải của các khu vực thu nhập cao khu vực Bắc Mỹ, châu Âu và các nước OECD Thái Bình Dương. Động lực để tách tăng trưởng kinh tế khỏi khí thải chủ yếu là trong nước với hệ thống năng lượng sử dụng than chủ yếu gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến ô nhiễm đất, không khí và nước của Trung Quốc.
Ngày nay, rủi ro khí hậu cũng đang thu hút sự chú ý trong nước với những tác động ngày càng sâu sắc của biến đổi khí hậu ví dụ như các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng tồi tệ, từ nắng nóng và hạn hán kỷ lục đến mưa và lũ lụt lớn nhất (MEE, 2023), đều đang ảnh hưởng đến nguồn nước, nguồn cung cấp năng lượng và sản xuất lương thực cũng như đe dọa sự ổn định của nền kinh tế quốc gia. Hiện các nỗ lực thích ứng với biến đổi khí hậu từ lâu đã được đẩy mạnh như một phần của chiến lược quốc gia kể từ năm 2013. Chương trình nghị sự về bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên được mô tả trước đây cũng được liên kết với chương trình nghị sự về khí hậu, chẳng hạn như nâng cao khả năng hấp thụ carbon của các hệ sinh thái. Việc cắt giảm phát thải được thúc đẩy bởi “mục tiêu carbon kép” khá táo bạo để lượng khí thải CO₂ đạt đỉnh trước năm 2030 và đạt được sự trung hòa về khí hậu trước năm 2060 hiện là kim chỉ nam cho việc hoạch định chính sách và đặt ra xu hướng phát triển kinh tế-xã hội trong những thập kỷ tới.
Chính sách cho các chương trình nghị sự tiếp theo: Khung chính sách “1+N” của Trung Quốc được thiết kế để thực hiện mục tiêu carbon kép của Trung Quốc với hướng dẫn của chính phủ trung ương được cung cấp trong hai tài liệu. Số “1” đề cập đến Hướng dẫn làm việc về đạt đỉnh CO₂ và tính trung hòa carbon trong việc thực hiện đầy đủ và trung thực. Chữ “N” đề cập đến các chính sách lĩnh vực quan trọng, trong đó đầu tiên là Kế hoạch hành động nhằm đạt mức đỉnh điểm CO₂ (2030). Các tỉnh của Trung Quốc được giao nhiệm vụ phát triển chiến lược “1+N” theo khuôn khổ quốc gia và hầu hết đã xây dựng FYP (2021-2025) theo từng lĩnh vực song vẫn chưa xây dựng lộ trình trung hòa carbon (CCNT, 2023).
Dự báo của DNV tính đến giá carbon của Trung Quốc
Chính phủ trung ương từ lâu đã nhấn mạnh sự đóng góp của lĩnh vực năng lượng đối với hệ thống năng lượng hiệu quả và carbon thấp thông qua hệ thống kiểm soát năng lượng kép được tăng cường.
“Kiểm soát năng lượng kép” là hạn chế tổng mức tiêu thụ năng lượng và cường độ năng lượng đã được tăng cường đều đặn kể từ FYP 11 (2006-2010) với các mục tiêu ràng buộc. Gần đây (7/2023), Hệ thống giao dịch phát thải carbon quốc gia của Trung Quốc (ETS) là dấu hiệu cho thấy sự chuyển đổi dần dần sang phương pháp tiếp cận kết hợp để loại bỏ carbon bao gồm cả cơ chế thị trường và quy định trực tiếp, góp phần đạt được các mục tiêu carbon kép của Trung Quốc và được đề cập như một phần của khung chính sách “1+N”. ETS còn nhắm đến các lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng và phát thải cao, như điện, lọc dầu, hóa chất, thép, vật liệu xây dựng, kim loại màu, giấy và hàng không. Hiện tại, ETS quốc gia bao gồm khoảng 2.200 đơn vị năng lượng, 4,5 tỷ tấn khí thải và khoảng 40% lượng khí thải của cả nước. Giấy phép phát thải được phân bổ miễn phí dựa trên phương pháp đo điểm chuẩn dựa trên đầu ra (ICAP, 2022).
FYP 14 (2021-2025) báo hiệu việc mở rộng ETS quốc gia để cuối cùng bao trùm các lĩnh vực phát thải cao (70% lượng phát thải). Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU CBAM cũng làm gia tăng thêm tính cấp thiết cho việc mở rộng phạm vi sang các lĩnh vực công nghiệp khác. Các nhà xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng EU CBAM sử dụng nhiều carbon (nhôm, xi-măng, điện, phân bón, hydrogen, sắt và thép) sang tị trường EU cần báo cáo lượng phát thải kèm theo trong giai đoạn chuyển tiếp từ năm 2023 đến năm 2026, bắt đầu từ các khoản thanh toán thông qua việc từ bỏ chứng chỉ EU CBAM (2026).
ETS quốc gia của Trung Quốc sẽ cần thời gian để hoàn thiện và thiết kế của nó sẽ được tinh chỉnh. Việc mở rộng nó có thể sẽ phản ánh mức độ tiếp xúc với EU CBAM. Sự dư thừa công suất của lĩnh vực và tiềm năng loại bỏ carbon cũng sẽ ảnh hưởng đến trình tự sự hòa nhập. Thép, vật liệu xây dựng và nhôm có thể là những ứng cử viên hàng đầu để trở thành những lĩnh vực mới đầu tiên. Các chương trình thí điểm ETS khu vực hiện tại sẽ tiếp tục hoạt động song song với thị trường quốc gia trong thời gian tới năm 2035. Các thị trường carbon khác, chẳng hạn như chương trình Giảm phát thải được chứng nhận (CCER), thị trường carbon tự nguyện trong nước của Trung Quốc đều được thiết lập để khởi động lại và cũng sẽ hoạt động song song với ETS quốc gia. Những người phát thải trong ETS quốc gia vượt quá mức cho phép của họ có thể nhận được tín chỉ CCER để bù đắp lượng phát thải; trong khi việc sử dụng tín dụng CCER được phép bị giới hạn ở mức tối đa 5% lượng phát thải đã được xác minh, một số phương án tín dụng để tuân thủ và một số chương trình thị trường carbon song song có khả năng hạn chế việc tăng mức giá ETS quốc gia.
Cho đến nay, nâng cao hiệu suất của các nhà máy than là biện pháp giảm phát thải chủ yếu nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn được thắt chặt. Dự kiến sẽ có sự điều chỉnh ETS trong tương lai với việc chuyển sang mức trần tuyệt đối về phát thải và đấu giá vào đầu đến giữa những năm 2030. Tuy nhiên, sự thay đổi này khó có thể xảy ra cho đến khi biết được mức phát thải sau khi lượng phát thải đã đạt đỉnh. Khi năng lượng dần dần loại bỏ carbon, việc ấn định giá sẽ ngày càng trở thành biện pháp giảm nhẹ trong lĩnh vực để kích hoạt các công nghệ và lựa chọn loại bỏ carbon cần thiết, chẳng hạn như CCUS và hydrogen, cho thấy quỹ đạo giá cacbon sẽ tăng đột biến sau năm 2040 để đạt được mức trung hòa carbon (2060).
Để tiện so sánh, DNV dự kiến mức giá carbon trung bình trong khu vực là 56 USD/tCO₂ (2050) ở khu vực Bắc Mỹ và 250 USD/tCO₂ (2050) ở khu vực châu Âu. Hiện Trung Quốc phải đặt ra trước những tham vọng và đạt được net-zero vào cuối những năm 2040. Để đạt được mục tiêu này, mức giá carbon trung bình yêu cầu là 100 USD/tCO₂ (2030) và 200 USD/tCO₂ (2050). Đây là một thách thức do dự báo rất có thể là Trung Quốc sẽ chuyển sang năm 2050 với các dự án giảm phát thải khoảng 8 GtCO₂ và tương lai net-zero đòi hỏi phải giảm thêm khoảng 5 GtCO₂ (2050).
Link nguồn:
https://safety4sea.com/wp-content/uploads/2024/04/DNV-Energy_Transition_Outlook_China_2024_04.pdf