Trường đại học kiến nghị giải pháp để không phải dừng đào tạo một số ngành khoa học xã hội
Theo đại diện một số cơ sở giáo dục đại học, cần đổi mới chương trình đào tạo và tạo thêm cơ hội việc làm mới có thể duy trì nhiều ngành xã hội nhân văn.
Căn cứ vào kết quả khảo sát tình hình việc làm sinh viên tốt nghiệp năm 2024 của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm trên tổng số sinh viên tốt nghiệp tại nhiều ngành ở mức tương đối thấp như ngành Việt Nam học (42,86%), Lịch sử (57,14%), Triết học (58,33%), Văn hóa học (59,78%),...
Còn tại Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tỉ lệ người học tốt nghiệp đại học có việc làm phù hợp với trình độ đào tạo trong thời gian 12 tháng sau khi tốt nghiệp của toàn trường cũng chỉ ở mức 72%, theo báo cáo kết quả tuyển sinh và đào tạo năm 2024.
Đại diện một số cơ sở giáo dục đại học đào tạo lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn thừa nhận dù có những ngành rất hay và ý nghĩa, nhưng sau một thời gian, nhà trường phải tạm dừng đào tạo do thị trường lao động không còn nhiều nhu cầu, sinh viên tốt nghiệp ít có cơ hội việc làm.
Nhiều ngành nặng về lý thuyết, không bám sát nhu cầu thực tiễn
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Dương Thành Thông - Phó Trưởng khoa, Khoa Lịch sử và Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) khẳng định việc nhiều ngành xã hội hay và ý nghĩa phải dừng đào tạo là quy luật vận hành của thị trường lao động.
Theo thầy Thông, nếu nhìn thẳng vào sự thật, câu chuyện này đặt ra ba vấn đề cốt lõi.
Thứ nhất, giữa cái “hay” và tính “ứng dụng” đang tồn tại khoảng cách lớn. Những ngành như Lịch sử, Văn học, hay Triết học,... đóng vai trò bồi đắp nền tảng văn hóa và bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, trong thời đại số, người học không thể chỉ mang giá trị hàn lâm ấy đi tìm việc, mà phải chứng minh được giá trị ứng dụng: kỹ năng nghề nghiệp, khả năng làm việc thực tế.

Tiến sĩ Dương Thành Thông - Phó Trưởng khoa, Khoa Lịch sử và Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: website nhà trường
Thứ hai, có khoảng “vênh” giữa đào tạo và nhu cầu mưu sinh. Người học ngày nay thực tế và tỉnh táo hơn: học để làm, để sống được nên không thể trách họ quay lưng với các ngành này khi đầu ra khó khăn, mức lương thấp, trong khi áp lực chi phí sinh hoạt tại các đô thị lớn ngày càng đè nặng. Việc sinh viên né tránh những ngành khó xin việc không phải là sự thờ ơ với giá trị học thuật, mà là cơ chế tất yếu.
Thứ ba, câu chuyện này đòi hỏi tầm nhìn dài hạn và vai trò của Nhà nước, bởi nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn là “cơm ăn nước uống” về tinh thần của một quốc gia. Nếu để thị trường tự do quyết định, sẽ đánh mất gốc rễ văn hóa.
Ở các nước phát triển, những ngành khoa học xã hội và nhân văn không bao giờ bị thả nổi. Nhà nước là bên “đặt hàng”, có cơ chế bảo trợ nhưng đó không phải là sự bao cấp cho trì trệ. Trường được "nuôi", nhưng phải đào tạo ra tinh hoa chứ không thể đào tạo tràn lan rồi để người học thất nghiệp.
Dù vậy, thầy Thông cũng cho rằng thực trạng một số ngành phải tạm dừng tuyển sinh không phải dấu chấm hết, mà là cú hích buộc các nhà trường phải soi lại chính mình: đang đào tạo theo khả năng của trường hay theo nhu cầu xã hội.
Nếu chương trình vẫn nặng lý thuyết cũ kỹ, thiếu kỹ năng mềm, thiếu tư duy phản biện hiện đại và thiếu ngoại ngữ, thì đầu ra tắc nghẽn là lỗi của người làm giáo dục, không phải lỗi của thị trường.
Đồng quan điểm, Tiến sĩ Hứa Sa Ni - Phó Trưởng khoa, Khoa Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh thừa nhận đây là hệ quả trực tiếp của sự dịch chuyển nhu cầu nhân lực trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và kỷ nguyên số.
Nguyên nhân ngoài việc giới trẻ ngày nay ưu tiên những ngành nghề có khả năng sớm mang lại thu nhập nhanh và ổn định, theo thầy Sa Ni, còn nằm ở vấn đề không ít cơ sở đào tạo vẫn chưa phân định rõ định hướng “ứng dụng” hay “nghiên cứu”, khiến chương trình chưa đủ chuyên sâu, dẫn đến sinh viên khó cạnh tranh khi xin việc.

Tiến sĩ Hứa Sa Ni - Phó Trưởng khoa, Khoa Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC
Việc chậm chuyển đổi số trong đào tạo từ chương trình, nội dung đến phương pháp thực hành,... cũng làm giảm sức hút của các ngành này.
“Các ngành đặc thù như Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Bảo tàng học hay Di sản văn hóa,... là nhóm ngành đang gặp thách thức lớn trong tuyển sinh. Trước đây, sinh viên theo học thường được tuyển dụng theo cơ chế đặt hàng nên đầu ra khá ổn định.
Nhưng khi chính sách thay đổi, người học phải tự tìm việc, dẫn tới tâm lý e ngại - đặc biệt với những ngành gắn với vùng sâu, vùng xa hay có thu nhập khởi điểm chưa cao. Nhiều người nhìn vào tên ngành mà lo ngại, nhưng thực tế nguồn nhân lực chuyên môn về văn hóa dân tộc thiểu số rất quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, văn hóa của đất nước.
Tại Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, dù có những năm chỉ tuyển được vài sinh viên, nhà trường vẫn kiên trì duy trì đào tạo ngành này vì ý nghĩa và tiềm năng phát triển của lĩnh vực - từ bảo tồn văn hóa đến khai thác giá trị du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa”, Tiến sĩ Hứa Sa Ni cho hay.
Cần tổ chức lại chương trình, đẩy mạnh đào tạo liên ngành và tăng cường hợp tác với doanh nghiệp
Việc một số ngành khối khoa học xã hội và nhân văn phải dừng tuyển sinh không chỉ là hiện tượng đơn lẻ mà là hồi chuông cảnh tỉnh cho toàn hệ thống giáo dục đại học. Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Dương Thành Thông, dừng đào tạo không đồng nghĩa với việc xóa sổ tri thức, vấn đề nằm ở cách tổ chức lại chương trình sao cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
Phó Trưởng khoa, Khoa Lịch sử và Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) đề xuất một số hướng tiếp cận mang tính “biến nguy cơ thành cơ hội”.
Trước hết, cần modular hóa và tích hợp tri thức. Thay vì cố duy trì một ngành đào tạo cử nhân kéo dài 4 năm như Gia đình học (đã dừng đào tạo tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội) - vốn dễ tạo cảm giác bấp bênh về cơ hội việc làm, nhà trường có thể chuyển hóa ngành này thành chuyên ngành sâu hoặc nhóm học phần tích hợp trong các ngành rộng hơn như Xã hội học hay Công tác xã hội.
Tương tự, kiến thức về văn hóa các dân tộc thiểu số vẫn rất giá trị, nhưng thay vì đào tạo thành một ngành độc lập, có thể thiết kế thành các module bắt buộc hoặc tự chọn nâng cao trong các chương trình của ngành Du lịch, Việt Nam học. Cách làm này vừa bảo toàn “hàm lượng tri thức”, vừa mang đến cho sinh viên lợi thế cạnh tranh rõ rệt.
Tiếp đó, đẩy mạnh đào tạo liên ngành và song bằng. Theo thầy Thông, xu hướng hiện nay là “bình mới rượu cũ” - tức là tái thiết kế lại các ngành truyền thống trong cấu trúc hiện đại hơn.
“Lấy ngành Di sản làm ví dụ: nếu sinh viên chỉ học quản lý di sản một cách đơn thuần, cơ hội nghề nghiệp sẽ rất hạn chế. Nhưng nếu ngành được “đóng gói lại” thành Quản trị Di sản và Công nghiệp Văn hóa, kết hợp cùng kiến thức marketing, truyền thông, tổ chức sự kiện, thì câu chuyện lại hoàn toàn thay đổi.
Sinh viên vừa có nền tảng văn hóa - lịch sử vững chắc, vừa sở hữu kỹ năng “kiếm được tiền”. Đó là cách thổi luồng sinh khí mới vào các ngành học thuật truyền thống”, Tiến sĩ Dương Thành Thông nhận định.

Sinh viên Khoa Lịch sử và Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: website nhà trường
Ngoài ra, cần chuyển trọng tâm sang đào tạo sau đại học đối với các ngành hàn lâm. Với những lĩnh vực quá chuyên sâu, thầy Thông cho rằng không nên kỳ vọng đào tạo đại trà ở bậc cử nhân.
Cách phù hợp hơn là duy trì chúng ở bậc thạc sĩ, tiến sĩ - nơi dành cho những người thực sự đam mê nghiên cứu. Ở bậc đại học, cơ sở giáo dục hãy cung cấp tri thức nền tảng và kỹ năng để sinh viên có thể “sống được”; khi đã có nghề, có thu nhập và vẫn giữ đam mê, họ sẽ quay lại học chuyên sâu.
“Đó là quy trình ngược, nhưng hợp lý trong bối cảnh kinh tế thị trường”, Phó Trưởng khoa, Khoa Lịch sử và Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) nói thêm.
Trong bối cảnh tuyển sinh giảm nhưng chi phí đào tạo cao, việc duy trì các ngành khoa học xã hội đang là bài toán nan giải của nhiều trường đại học. Theo Tiến sĩ Dương Thành Thông, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) đang cân bằng giữa phát triển và bảo tồn các ngành cốt lõi bằng ba giải pháp.
Đầu tiên, nhà trường áp dụng nguyên tắc “lấy ngắn nuôi dài”, dùng nguồn thu từ các ngành đông người học như Quan hệ quốc tế, Báo chí, Du lịch, Tâm lý học để bù đắp cho những ngành nền tảng nhưng ít thí sinh như Khảo cổ học, Hán Nôm, Triết học,... Đây được xem là trách nhiệm giữ gìn “linh hồn” của một cơ sở đào tạo khoa học cơ bản.
Không những vậy, các khoa chuyên ngành không trông chờ vào học phí mà chủ động “bán chất xám” ở những nơi cần thông qua nghiên cứu, tư vấn, thực hiện đề tài, dự án bảo tồn, biên soạn lịch sử địa phương… qua đó tạo thêm nguồn lực tài chính và khẳng định giá trị tri thức.
Cuối cùng, nhà trường kiến nghị Nhà nước có cơ chế “đặt hàng” đào tạo rõ ràng đối với các ngành được xem là lĩnh vực mang sứ mệnh quốc gia. Khi xác định nhu cầu nhân lực trong từng giai đoạn, ngân sách cần được cấp để bảo đảm quá trình đào tạo và đầu ra.
Trong khi đó, Tiến sĩ Hứa Sa Ni cho biết, dù ngành Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam có xu hướng tuyển sinh giảm trong những năm gần đây, nhưng Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh vẫn duy trì ngành này, chỉ sắp xếp lại bộ máy theo hướng gộp khoa, đồng thời tập trung đổi mới chương trình để phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn.

Sinh viên Khoa Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường
“Vấn đề là phải đổi mới phương pháp giảng dạy. Chúng tôi đang tập trung nghiên cứu nhu cầu thị trường để điều chỉnh chương trình theo hướng ứng dụng; bổ sung học phần, đổi mới phương pháp giảng dạy, đẩy mạnh yếu tố kỹ thuật số và mở thêm các chuyên ngành chuyên sâu.
Định hướng xuyên suốt là đào tạo theo mô hình ứng dụng, giúp sinh viên tốt nghiệp có thể làm việc ngay, không phải đào tạo lại.
Nhà trường cũng mở rộng hợp tác với doanh nghiệp, cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm đưa họ tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo. Nhờ đó, sinh viên có cơ hội tích lũy kỹ năng, kinh nghiệm và tiếp cận môi trường nghề nghiệp từ sớm.
Dù hiện nay các ngành khoa học xã hội và nhân văn nói chung và ngành Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng đang đối mặt nhiều biến động, nhưng nếu có chiến lược đào tạo phù hợp, gắn với nhu cầu thật của xã hội, lĩnh vực này vẫn có dư địa phát triển mạnh mẽ trong tương lai”, Tiến sĩ Hứa Sa Ni nhấn mạnh.












