Từ mong ước của Người đến tầm vóc Petrovietnam
Năm 1959, trong chuyến thăm Azerbaijan, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng mong Việt Nam có một 'khu công nghiệp dầu khí mạnh như Bacu'. Hơn 6 thập niên trôi qua kể từ khoảnh khắc lịch sử ấy, ngọn lửa nhiệt huyết mà Người nhen lên vẫn cháy mãi, soi đường cho sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp năng lượng nước nhà hôm nay.

Bác Hồ thăm Azerbaijan năm 1959 (ảnh tư liệu)
Ngay sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc vừa giải phóng đã đứng trước yêu cầu kiến thiết, phát triển kinh tế. Với tầm nhìn chiến lược của một vị lãnh tụ thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm xác định Việt Nam phải xây dựng một nền công nghiệp dầu khí tầm cỡ quốc tế.
Trong chuyến thăm lịch sử tại Bacu (Azerbaijan) - nơi được mệnh danh là “thủ đô dầu mỏ” của Liên bang Xô viết, Người đã gửi gắm một thông điệp và khát vọng mạnh mẽ: “Tôi nghĩ Việt Nam chúng tôi có biển, nhất định sẽ có dầu... Tôi hy vọng và tin rằng sau khi Việt Nam kháng chiến thắng lợi, các đồng chí sẽ giúp chúng tôi tìm ra dầu, khai thác và chế biến dầu, xây dựng được khu công nghiệp dầu khí như Bacu”.
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt kỳ vọng về một ngành công nghiệp dầu khí mạnh, Việt Nam chưa có một giếng khoan nào, chưa có một đội ngũ kỹ sư chuyên ngành nào, càng chưa có hạ tầng pháp lý - kỹ thuật hay năng lực tổ chức cho một lĩnh vực phức tạp bậc nhất như dầu khí. Song, trong câu nói này, Người đã phác họa đầy đủ một bản thiết kế chiến lược: Nguyện vọng về một ngành công nghiệp dầu khí mạnh; Mục tiêu xây dựng nền công nghiệp độc lập, bền vững; Giải pháp là huy động sự hỗ trợ từ bạn bè quốc tế; và Phương pháp là hợp tác, tiếp thu công nghệ, đào tạo nhân lực, từng bước làm chủ kỹ thuật.
Câu nói của Người không chỉ là dự cảm của một vị lãnh tụ thiên tài về tiềm năng tài nguyên, mà còn trở thành kim chỉ nam cho hành trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, hướng tới một nền năng lượng độc lập và tự chủ.
Từng bước khai mở đến vươn mình mạnh mẽ
Bắt đầu từ nền tảng địa chất học sơ khai và những chuyến khảo sát đầu tiên ở Bắc Bộ, cuộc hành trình khai phá tiềm năng dầu khí đã được bắt đầu trong muôn vàn gian khó. Được sự quan tâm đặc biệt của Trung ương Đảng và Chính phủ, ngành dầu khí non trẻ đã được tiếp thêm sức mạnh, âm thầm chuẩn bị nguồn nhân lực, kỹ thuật trong thời chiến, để khi hòa bình lập lại có thể “đi tắt, đón đầu” xây dựng ngành một cách thần tốc.
Những năm 70-80 của thế kỷ XX ghi dấu bước chuyển chiến lược khi Việt Nam ký các hiệp định hợp tác dầu khí với Liên Xô, hình thành Liên doanh Vietsovpetro - mô hình khởi nguyên của hợp tác hiệu quả và chuyển giao công nghệ trong ngành dầu khí. Việc phát hiện và khai thác thành công mỏ Bạch Hổ không chỉ mang lại những dòng dầu thương mại đầu tiên, mà còn đặt nền móng cho hệ tư duy “vừa học, vừa làm, vừa sáng tạo” - đặc trưng của đội ngũ kỹ sư Việt Nam thời kỳ đầu.

Khai thác dầu khí mỏ Bạch Hổ
Bước sang thập niên 1990-2000, hành trình chuyển mình diễn ra mạnh mẽ khi Việt Nam mở rộng hợp tác với nhiều tập đoàn dầu khí quốc tế, từng bước xây dựng hệ thống pháp luật về dầu khí, thành lập Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, rồi phát triển thành Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (nay là Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam - Petrovietnam). Chính trong giai đoạn này, tư duy “vừa học, vừa làm” đã dần phát triển lên thành khát vọng “làm chủ” - làm chủ giếng khoan, làm chủ thiết kế, làm chủ điều hành, làm chủ đàm phán. Những mốc son như khai thác các mỏ mới (Đại Hùng, Rạng Đông, Lan Tây - Lan Đỏ…), hình thành các đơn vị dịch vụ kỹ thuật chuyên sâu, đầu tư ra nước ngoài, đã xác lập bản sắc riêng của ngành dầu khí Việt Nam: tự tin, hội nhập và vững vàng trên thương trường quốc tế.
Từ đầu những năm 2010 đến nay, Petrovietnam đã hoàn thiện năng lực làm chủ toàn bộ chuỗi giá trị dầu khí - từ tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tồn trữ, phân phối đến phát triển công nghiệp khí, điện khí, lọc - hóa dầu, năng lượng tái tạo. Petrovietnam đã hình thành một hệ sinh thái doanh nghiệp đồng bộ, phát triển đội ngũ nhân lực kỹ thuật cao, làm chủ các dự án EPCI ngoài khơi, vươn tầm khu vực và từng bước khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Đây là hành trình được hun đúc không chỉ bằng khoa học và công nghệ, mà trước hết là bằng sự lãnh đạo kiên định của Đảng, bằng bản lĩnh chính trị vững vàng, tư duy chiến lược nhất quán và khát vọng không ngừng vươn lên. Đó cũng chính là nền tảng để Petrovietnam đảm đương trọng trách trụ cột trong sự nghiệp bảo đảm các yêu cầu phát triển cốt lõi của đất nước trong thời đại mới.

Kỹ sư phân tích mẫu nước cho sản xuất phân bón tại PVCFC
Petrovietnam - Gìn giữ 5 “an” cho đất nước
Nhìn lại tiến trình phát triển của đất nước, có thể thấy Petrovietnam đã khẳng định vị thế không thể thay thế, trở thành lực lượng nòng cốt bảo đảm vững chắc 5 yếu tố nền tảng cho sự ổn định và phát triển quốc gia: an ninh năng lượng, an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh quốc phòng và an sinh xã hội. Mỗi trụ cột là một minh chứng cụ thể cho khả năng hiện thực hóa tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng hành động, bằng trí tuệ và bằng ý chí Việt Nam.
An ninh năng lượng quốc gia được củng cố nhờ vai trò điều tiết chiến lược của Petrovietnam trong toàn bộ chuỗi giá trị dầu khí. Từ năm 1986 đến nay, Petrovietnam đã khai thác an toàn, hiệu quả hơn 460 triệu tấn dầu thô và 200 tỉ m³ khí. Khoảng 9-11 tỉ m³ khí được cung cấp hằng năm cho phát điện, sản xuất công nghiệp và tiêu dùng dân sinh, đóng góp 35% sản lượng điện, 70-80% nhu cầu khí dân dụng cả nước. Với tổng công suất các nhà máy điện đạt 8.229 MW, Petrovietnam chiếm khoảng 15% sản lượng điện quốc gia. Nguồn cung xăng dầu và LPG từ Tập đoàn cũng đáp ứng lần lượt hơn 70% và 75% thị phần toàn quốc, tạo nền tảng ổn định cho sản xuất, sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế.
An ninh kinh tế được củng cố bằng năng lực đóng góp ngân sách lớn, ổn định và liên tục của Tập đoàn trong nhiều thập niên. Giai đoạn đỉnh cao, ngành dầu khí chiếm tới 30% tổng thu ngân sách quốc gia và đến nay vẫn giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế. Giai đoạn 2010-2024, Petrovietnam đã nộp ngân sách gần 1,3 triệu tỉ đồng, hiện tiếp tục đóng góp trung bình 9-10% GDP và khoảng 9-9,5% tổng thu ngân sách Nhà nước, trong bối cảnh quy mô nền kinh tế đã mở rộng vượt bậc. Không chỉ tạo ra của cải vật chất, Petrovietnam còn là doanh nghiệp Việt Nam chủ động tạo nguồn ngoại tệ thông qua xuất khẩu dầu thô, hóa dầu và dịch vụ kỹ thuật ra thị trường quốc tế.
An ninh lương thực được củng cố thông qua việc cung cấp ổn định nguồn khí cho các nhà máy sản xuất phân đạm - nhân tố quyết định năng suất nông nghiệp. Các nhà máy Đạm Cà Mau và Đạm Phú Mỹ do Petrovietnam đầu tư và vận hành đã đáp ứng trên 70% nhu cầu phân bón trong nước, góp phần giảm phụ thuộc nhập khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam trong khu vực. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và biến động giá vật tư toàn cầu, vai trò ổn định nguồn cung phân bón càng trở nên thiết yếu đối với phát triển nông nghiệp bền vững.

Petrovietnam cùng Sembcorp và Liên danh Năng lượng Malaysia thiết lập hợp tác chiến lược về điện tái tạo xuyên biên giới
An ninh quốc phòng được củng cố bằng sự hiện diện vững vàng của ngành dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam. Mỗi giàn khoan, mỗi tàu khảo sát, mỗi công trình dầu khí đều là “vọng gác tiền tiêu” giữa Biển Đông - vừa góp phần phát triển kinh tế, vừa khẳng định chủ quyền quốc gia. Petrovietnam đã chủ động triển khai các dự án khảo sát địa chấn, khoan thăm dò ở vùng nước sâu, xa bờ và phối hợp chặt chẽ với các lực lượng quốc phòng trong lập kế hoạch, thẩm định, bảo vệ an ninh các hoạt động trên biển. Qua đó, ngành dầu khí không chỉ góp phần thực hiện chiến lược kinh tế biển, mà còn trở thành điểm tựa cho thế trận biên phòng toàn dân.
An sinh xã hội được Petrovietnam thực hiện bằng trách nhiệm thực chất, bền vững và xuyên suốt. Không chỉ tạo việc làm ổn định cho hàng trăm nghìn lao động trực tiếp và gián tiếp trong toàn chuỗi giá trị dầu khí, Tập đoàn còn tiên phong trong các hoạt động vì cộng đồng: xây dựng trường học, trạm y tế, nhà tình nghĩa; hỗ trợ phòng chống thiên tai, dịch bệnh; đồng hành cùng các chương trình xóa đói giảm nghèo ở vùng sâu vùng xa. Từ năm 2006-2024, tổng số tiền Petrovietnam dành cho hoạt động an sinh xã hội đã vượt trên 8.400 tỉ đồng. Đây chính là sự lựa chọn từ bên trong văn hóa trách nhiệm của Tập đoàn - một phần tự nhiên và nhất quán trong sứ mệnh phát triển vì con người, vì cộng đồng và vì tương lai bền vững của đất nước.
Petrovietnam - Dẫn dắt hành trình năng lượng mới
Nếu lời Bác Hồ năm 1959 khai mở cho hành trình kiến tạo, thì thời đại hôm nay - với những biến chuyển sâu sắc về địa chính trị, công nghệ và yêu cầu phát triển bền vững - đang đặt ra một sứ mệnh mới: nâng tầm ngành công nghiệp dầu khí thành lực lượng nòng cốt trong quá trình chuyển đổi năng lượng quốc gia. Petrovietnam, với định danh mới là Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam, không chỉ đang tiếp nối khát vọng làm chủ tài nguyên, mà còn đang hiện thực hóa một khát vọng lớn hơn: dẫn dắt tiến trình thích ứng chiến lược, bảo đảm tăng trưởng xanh và an ninh năng lượng thế hệ mới.
Tầm nhìn ấy được thể hiện rõ qua việc Petrovietnam chủ động tái định vị vai trò trong chuỗi năng lượng quốc gia - từ nhà sản xuất dầu khí truyền thống trở thành tập đoàn năng lượng tích hợp, có khả năng phát triển linh hoạt giữa các nguồn năng lượng hóa thạch và năng lượng sạch.
Ngay từ giữa thập niên 90, khi khái niệm “chuyển dịch năng lượng” còn xa lạ, Petrovietnam đã chủ động lựa chọn mô hình khai thác, thu gom và sử dụng khí đồng hành - thay vì đốt bỏ - nhằm đưa khí vào phát điện, sản xuất phân bón và phục vụ công nghiệp. Những dự án như Bạch Hổ - Dinh Cố - Phú Mỹ - Thủ Đức đã đặt nền móng cho kỷ nguyên khí hóa nền kinh tế phía Nam, mở rộng ra chuỗi khí - điện - đạm khép kín trên quy mô toàn quốc. Hạ tầng đường ống, nhà máy điện, kho cảng khí và mạng lưới phân phối đã tạo thành hệ sinh thái năng lượng có khả năng giảm sâu phát thải và tối ưu hóa tài nguyên khí thiên nhiên.
Hiện nay, Petrovietnam tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng với những dự án quy mô lớn, hiện đại, tiêu biểu như Chuỗi khí điện Lô B - Ô Môn với công suất hơn 22 tỉ kWh mỗi năm, tổ hợp điện LNG Nhơn Trạch 3 và 4 lần đầu tiên sử dụng khí hóa lỏng nhập khẩu tại Việt Nam, hay hệ thống hạ tầng LNG Thị Vải - công trình đầu tiên và lớn nhất nước ta trong lĩnh vực LNG. Tập đoàn cũng dẫn đầu trong nghiên cứu áp dụng đồng đốt sinh khối, amoniac xanh và tích hợp công nghệ số - AI - Big Data trong vận hành các tổ máy điện khí, từng bước hình thành mô hình phát điện phát thải thấp.
Cùng với các lĩnh vực lõi như thăm dò - khai thác, khí và điện, Petrovietnam phát triển mạnh mẽ dịch vụ kỹ thuật dầu khí chất lượng cao - lực lượng nòng cốt trong thiết kế, chế tạo, lắp đặt và vận hành nhiều công trình năng lượng phức tạp trong nước và quốc tế. Đến nay, các cấu kiện điện gió do Petrovietnam chế tạo đã được xuất khẩu thành công, đánh dấu bước chuyển vững chắc vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Với bước chạy đà vững chãi, Petrovietnam đang xúc tiến đầu tư dự án điện gió ngoài khơi đầu tiên tại Việt Nam, tiến tới làm chủ công nghệ, vận hành hệ sinh thái năng lượng sạch và xuất khẩu năng lượng tái tạo ra khu vực.

Người lao động BSR
Petrovietnam không chỉ triển khai các dự án năng lượng chiến lược, mà còn tham gia tích cực vào quá trình hoạch định chính sách - quy hoạch ở tầm quốc gia. Tập đoàn đóng góp chuyên môn thực tiễn vào các quy hoạch trọng yếu như Quy hoạch điện VIII, Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia, Quy hoạch phát triển hệ thống khí thiên nhiên và chiến lược phát triển LNG, góp phần định hình cấu trúc nguồn điện, cơ cấu nhiên liệu và mô hình hạ tầng liên kết vùng. Những đóng góp này không chỉ hỗ trợ Chính phủ hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 tại COP26, mà còn mở ra hướng phát triển năng lượng chủ động, tự chủ và thích ứng cho cả giai đoạn sau năm 2045.
Petrovietnam, với những bước đi chiến lược đó đã kiến tạo nền tảng cho một hệ sinh thái năng lượng tích hợp, thể hiện rõ bản lĩnh dẫn dắt quá trình chuyển đổi - từ khai thác tài nguyên sang kiến tạo giá trị, từ năng lượng truyền thống sang phát triển bền vững. Đó cũng chính là cách Petrovietnam tiếp nối và hiện thực hóa khát vọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao gửi, bằng tinh thần tự chủ, quyết tâm đổi mới và trách nhiệm quốc gia ở tầm cao nhất.
Hành trình phát triển của ngành dầu khí Việt Nam - bắt đầu từ khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bacu năm 1959 - đến nay đã trở thành một biểu tượng của ý chí tự lực, trí tuệ đổi mới và bản lĩnh vươn lên. Trách nhiệm lịch sử đặt ra cho Tập đoàn là tiếp tục phát huy vị thế tiên phong, thúc đẩy chuyển đổi năng lượng một cách chủ động, toàn diện và hiệu quả. Tầm nhìn ấy không chỉ hướng đến việc phát triển một tập đoàn kinh tế chủ lực, mà còn kiến tạo nền tảng cho một hệ sinh thái năng lượng Việt Nam hiện đại - tự chủ - hội nhập, góp phần xây dựng đất nước hùng cường, phát triển bền vững và làm chủ vận mệnh tương lai.
Petrovietnam đã kiến tạo nền tảng cho hệ sinh thái năng lượng tích hợp, thể hiện vai trò dẫn dắt chuyển đổi từ khai thác tài nguyên sang kiến tạo giá trị, từ truyền thống đến bền vững - tiếp nối khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng tinh thần tự chủ, đổi mới và trách nhiệm quốc gia ở tầm cao.
Trúc Lâm