Từ phát hiện đến phát huy nhân tài trong giai đoạn mới của đất nước

Khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, kỷ nguyên mới với yêu cầu cao hơn về chất lượng đào tạo, khoa học-công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế sâu rộng, công tác phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo học sinh tài năng và sử dụng nhân tài trở thành một trong những yếu tố chiến lược có tính quyết định.

Dân tộc Việt Nam đã sớm hình thành và gìn giữ truyền thống trọng dụng nhân tài, việc lập ra Văn Miếu-Quốc Tử Giám (Hà Nội) và Quốc Tử Giám (Huế) chính là biểu tượng sinh động cho tư tưởng “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Thời Lý-Trần, triều đình đặt Văn Miếu-Quốc Tử Giám (Hà Nội) sau đó Quốc Tử Giám (Huế) như trung tâm đào tạo nhân tài ưu tú, thể hiện rõ rằng nếu không có người tài thì quốc gia khó có thể phát triển bền vững. Ngày nay, khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, kỷ nguyên mới với yêu cầu cao hơn về chất lượng đào tạo, khoa học-công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế sâu rộng, câu chuyện phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng nhân tài trở thành một trong những yếu tố chiến lược quyết định sự thay đổi và phát triển.

Hiền tài, theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ đòi hỏi tài năng mà còn phải có đức - tức là phẩm chất tốt đẹp. Tài năng thể hiện ở năng lực chuyên môn, phẩm chất chính là đạo đức, lòng yêu nước, trách nhiệm xã hội. Từ Nghị quyết số 29-NQ/TW của Trung ương và được ngành giáo dục cụ thể trong chương trình Chương trình giáo dục phổ thông 2018, yêu cầu phát triển hài hòa cả năng lực và phẩm chất đã được đặt ra rõ ràng: năng lực thể hiện qua việc học tập, nghiên cứu, cao hơn nữa là tham gia các kỳ thi quốc gia, quốc tế và đoạt huy chương; phẩm chất thể hiện qua lòng yêu nước, ý thức công dân, trách nhiệm xã hội.

Xét riêng kết quả các kỳ Olympic quốc tế các môn thuộc nhóm STEM của Việt Nam, giai đoạn 2016-2025, thành tích các đội tuyển học sinh Việt Nam tham gia rất ấn tượng. Giai đoạn này học sinh Việt Nam đã đạt 362 huy chương, trong đó có 112 Huy chương Vàng, 140 Huy chương Bạc, 89 Huy chương Đồng và 21 bằng khen. Số huy chương vàng đạt gần gấp đôi giai đoạn 2006-2015 với 62 Huy chương Vàng và luôn vào tốp 10 các quốc gia đạt nhiều huy chương nhất thế giới.

 Đội tuyển quốc gia Việt Nam với 4 học sinh tham dự Olympic Hóa học quốc tế năm 2025 đã đạt thành tích 4 Huy chương Vàng. (Ảnh: ĐẠI THẮNG)

Đội tuyển quốc gia Việt Nam với 4 học sinh tham dự Olympic Hóa học quốc tế năm 2025 đã đạt thành tích 4 Huy chương Vàng. (Ảnh: ĐẠI THẮNG)

 Bốn học sinh đội tuyển quốc gia Việt Nam tham dự Olympic Sinh học quốc tế (IBO) năm 2025 đều đạt huy chương. (Ảnh: ĐẠI THẮNG)

Bốn học sinh đội tuyển quốc gia Việt Nam tham dự Olympic Sinh học quốc tế (IBO) năm 2025 đều đạt huy chương. (Ảnh: ĐẠI THẮNG)

 Học sinh Việt Nam đạt 5 Huy chương Olympic Vật lý quốc tế IPhO 2025.

Học sinh Việt Nam đạt 5 Huy chương Olympic Vật lý quốc tế IPhO 2025.

 Sáu học sinh trong đội tuyển Việt Nam tham dự Olympic Toán quốc tế (IMO) lần thứ 66, năm 2025, đạt thành tích 6 huy chương.

Sáu học sinh trong đội tuyển Việt Nam tham dự Olympic Toán quốc tế (IMO) lần thứ 66, năm 2025, đạt thành tích 6 huy chương.

Việc học sinh Việt Nam đoạt nhiều huy chương quốc tế là minh chứng cho thấy chúng ta không thiếu người năng lực giỏi; nhưng nếu thiếu lòng yêu nước và trách nhiệm xã hội thì những tài năng đó khó phát huy đúng hướng, đúng thời điểm, đúng vị trí đất nước cần. Do vậy, việc đặt trọng tâm không chỉ là “học để đoạt giải” mà là “học để sẵn sàng cống hiến và phục vụ đất nước” là yêu cầu mang tính chiến lược và đòi hỏi phải có tầm nhìn xa và có lộ trình cụ thể của nhiều bên liên quan.

Trên bình diện quốc tế, cuộc cạnh tranh nhân tài diễn ra ngày càng gay gắt. Nhiều quốc gia đã có chiến lược, chương trình, đề án rất cụ thể tường minh và đã triển khai hệ thống chính sách đột phá trong thu hút, đào tạo và giữ chân nhân tài một cách bài bản. Báo cáo của Organisation for Economic Co‑operation and Development (OECD) nêu rõ rằng các quốc gia thành viên đang ngày càng cạnh tranh để thu hút lao động trình độ cao, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học-công nghệ và nhóm ngành STEM, bởi đây là nguồn lực then chốt cho đổi mới, tăng trưởng và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Báo cáo mới nhất “Measuring and assessing talent attractiveness in OECD countries-Second Edition” cho thấy việc tuyển dụng nhân tài quốc tế không chỉ phụ thuộc vào chính sách nhập cư mà còn liên quan tới môi trường sống, khả năng hội nhập, hệ thống lao động và cơ hội phát triển nghề nghiệp. Một nghiên cứu khác của International Centre for Migration Policy Development (ICMPD) chỉ rõ rằng nhiều quốc gia châu Âu và ngoài EU từ năm 2021 đến 2024 đã phát triển các chiến lược mới để thu hút nhân tài nước ngoài, tập trung vào các ngành khoa học-công nghệ cao như ICT, y-dược, sản xuất giá trị cao.

Để thu hút nhân tài cần có chiến lược đi kèm các chính sách vượt trội, chế độ ưu đãi đặc biệt, môi trường làm việc và nghiên cứu hấp dẫn, kết nối quốc tế mạnh mẽ, đồng thời cũng rất rõ về trách nhiệm của công dân nhân tài, mũi nhọn khi được sử dụng theo chính sách vượt trội.

Những kinh nghiệm này cho thấy, việc thu hút nhân tài không chỉ đơn thuần bằng lời kêu gọi, động viên tức thời mà cần có chiến lược đi kèm các chính sách vượt trội, chế độ ưu đãi đặc biệt, môi trường làm việc và nghiên cứu hấp dẫn, kết nối quốc tế mạnh mẽ, đồng thời cũng rất rõ về trách nhiệm của công dân nhân tài, mũi nhọn khi được sử dụng theo chính sách vượt trội.

Trong bối cảnh Việt Nam, việc phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng nhân tài mang những ý nghĩa và nhiệm vụ hết sức lớn, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi cả nước đang quyết liệt triển khai chương trình hành động thực hiện nhiều Nghị quyết, trong đó trọng tâm là Nghị quyết 57-NQ/TW và Nghị quyết 71-NQ/TW lấy con người là trọng tâm cho sự đột phá phát triển. Trước hết với công tác phát hiện và tuyển chọn, ngành giáo dục và đào tạo đã và đang quyết liệt đổi mới phương pháp, tổ chức các kỳ thi, tập huấn chuyên sâu cho đội tuyển Olympic quốc tế, mở rộng môi trường STEM cho học sinh giỏi.

Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế về cơ sở vật chất chuyên sâu, thiếu phòng thí nghiệm hiện đại, phòng thí nghiệm STEM chưa đồng đều và còn thiếu nhiều, ngân sách đào tạo mũi nhọn chưa tương xứng với yêu cầu cạnh tranh quốc tế. Bên cạnh đó, “chảy máu chất xám” sau khi đạt giải cao và sau đào tạo vẫn là thực trạng khi nhiều học sinh đoạt giải quốc tế đi du học, ở lại nước ngoài và chưa quay về phục vụ nước nhà.

Ngành giáo dục và đào tạo đã và đang quyết liệt đổi mới phương pháp, tổ chức các kỳ thi, tập huấn chuyên sâu cho đội tuyển Olympic quốc tế, mở rộng môi trường STEM cho học sinh giỏi.

Hệ thống thông tin và cơ chế kết nối giữa các học sinh đoạt giải còn thiếu tính thống nhất và liên thông. Việc kết nối giữa học sinh đoạt giải với hệ thống thông tin trong nước và với mạng lưới sử dụng nhân tài vẫn chưa được thực hiện. Khảo sát 47 lượt học sinh đoạt giải quốc tế môn Hóa học (môn có thành tích cao nhất trong các đội tuyển Việt Nam những năm gần đây, trong 6 năm liên tiếp từ 2020 đến 2025 đã có 24/24 đoạt huy chương với 21 huy chương vàng, 3 huy chương bạc) cho thấy, phần lớn các em theo đuổi con đường học tập và nghiên cứu chuyên sâu tại các trường hàng đầu ở nước ngoài như: Singapore, HongKong (Trung Quốc), Mỹ.

Cùng với đó, khảo sát trên thị trường nhân lực cho thấy doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn lớn trong việc thu hút nhân tài phù hợp kỹ năng thời đại số, đặc biệt ở các lĩnh vực ICT, AI và blockchain. Một nghiên cứu cũng chỉ ra rằng Việt Nam đang đối mặt với khoảng trống nhân lực lớn trong các ngành công nghệ cao và vào các vị trí quan trọng như kỹ sư trưởng, công trình sư trưởng, trưởng điều hành phòng lab lớn, trưởng các nhóm nghiên cứu chuyên sâu đạt tầm quốc tế,…

Những thách thức nêu trên cho thấy: (i) thiếu hệ thống thông tin và cơ chế kết nối đồng bộ giữa học sinh đoạt giải (nói riêng, nhân tài nói chung), giữa trong và ngoài nước; (ii) chưa đáp ứng được yêu cầu kỹ năng mới của thời đại số dẫn tới việc doanh nghiệp gặp khó thu hút nhân sự; (iii) chính sách và môi trường sử dụng nhân tài-đãi ngộ-giữ chân vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng; (iv) xu hướng thay đổi nghề nghiệp và di chuyển nhân tài quốc tế ngày càng rõ, đặt ra yêu cầu lớn cho chính sách thu hút và sử dụng.

Cần nhấn mạnh rằng Nghị quyết 57-NQ/TW ban hành ngày 22/12/2024 đã xác định rõ “phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu”, điểm nhấn là “nhà khoa học là nhân tố then chốt” và “chú trọng nghiên cứu cơ bản, tiến tới tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở một số lĩnh vực” và trực tiếp đặt ra yêu cầu phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài là một trong các nhiệm vụ trung tâm.

Theo đó, Nghị quyết nhấn mạnh việc xây dựng cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút, đào tạo và sử dụng nhân tài trong các lĩnh vực mũi nhọn như toán, lý, hóa, kỹ thuật, công nghệ số; đồng thời xác định mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam phải nằm trong nhóm dẫn đầu Đông Nam Á về năng lực khoa học và công nghệ mới. Việc này cho thấy rõ sự gắn kết rất chặt chẽ giữa phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo nhân tài với chiến lược đột phá về khoa học-công nghệ và chuyển đổi số, qua đó mở ra triển vọng mạnh mẽ để biến nhân tài thành nhân tố quyết định cho sự phát triển của đất nước.

Việc sử dụng và đãi ngộ nhân tài cũng là nhiệm vụ then chốt và mang tính đột phá hơn bao giờ hết. Nhân tài có thể đóng góp trực tiếp và đóng góp gián tiếp. Đóng góp trực tiếp là khi người tài đảm nhận những vị trí then chốt như lãnh đạo nhóm nghiên cứu khoa học-công nghệ lõi, quản lý nhà nước, kỹ sư trưởng, chuyên gia chiến lược - từ đó tạo ra sản phẩm đổi mới, nâng cao năng lực khoa học-công nghệ và quản trị quốc gia. Đóng góp gián tiếp là khi người tài học tập và làm việc ở nước ngoài nhưng vẫn duy trì liên kết với quê hương bằng cách chuyển giao công nghệ, tham gia hợp tác nghiên cứu, hỗ trợ tài liệu, mạng lưới chuyên gia - cũng là nguồn lực không thể bỏ qua. Cả hai hình thức đều cần thiết: Nếu chỉ có đóng góp gián tiếp mà thiếu sử dụng trực tiếp thì sẽ thiếu sự đồng bộ; nếu chỉ sử dụng trong nước mà cắt đứt liên hệ với quốc tế cũng sẽ thiếu chiều sâu và tầm ảnh hưởng.

Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra văn kiện chiến lược vô cùng quan trọng. Nghị quyết 71‑NQ/TW (ban hành ngày 22/8/2025) khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc; giáo dục đại học là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao, nhân tài, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”. Văn kiện đặt ra mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 về một hệ thống giáo dục hiện đại, công bằng, chất lượng, đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới. Một số nội dung quan trọng của nghị quyết như tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên xuất sắc nước ngoài, phấn đấu có 5 cơ sở giáo dục đại học nằm trong top 100 thế giới trong một số lĩnh vực. Cũng trong Nghị quyết, Chính phủ giao chỉ tiêu đầu tư: ít nhất 5% tổng chi thường xuyên nhà nước cho giáo dục, trong đó 3% dành cho giáo dục đại học.

Trên cơ sở đó, chiến lược phát hiện-đào tạo-sử dụng nhân tài được định hướng rõ ràng: phát hiện từ sớm, từ phổ thông, mở rộng môi trường giáo dục chuyên sâu; đào tạo theo lộ trình cá nhân hóa, kết nối quốc tế trong đào tạo; sử dụng nhân tài đặt ra yêu cầu về cơ chế đãi ngộ ưu tiên, vị trí việc làm phù hợp; xây dựng mạng lưới nhân tài quốc gia - “Talent Hub” kết nối trong và ngoài nước; đồng thời khơi dậy mạnh mẽ phong trào học tập, tự học, sáng tạo trong toàn xã hội. Để thực hiện hiệu quả, cần đổi mới tư duy, thể chế, chính sách, nguồn lực-huy động, phân bổ và sử dụng ngân sách, đầu tư hạ tầng, phát triển giáo viên và nhà khoa học - đây là những điểm được Nghị quyết 71 đề cập như nhiệm vụ đột phá.

 GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên trái) và GS,TS Nguyễn Ngọc Hà (ảnh bên phải).

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên trái) và GS,TS Nguyễn Ngọc Hà (ảnh bên phải).

Dẫu vậy, để hiện thực hóa tầm nhìn đó, vẫn còn không ít thách thức: Hệ thống phát hiện nhân tài chưa hoàn chỉnh, thiếu thống nhất; cơ sở vật chất chuyên sâu cho học sinh tài năng chưa phủ khắp; ngân sách và chính sách đãi ngộ chưa tương xứng với yêu cầu cạnh tranh quốc tế; mạng lưới nhân tài quốc gia chưa được kết nối chặt chẽ giữa trong và ngoài nước. Nếu không khắc phục kịp thời, tiềm năng nhân tài có thể bị lãng phí hoặc bỏ lỡ. Vì vậy, rất cần sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy, chính quyền; trách nhiệm rõ người, rõ việc, rõ thời gian; theo dõi đánh giá liên tục để điều chỉnh ngay khi cần. Chính phủ đã giao 36 mục tiêu và 151 giải pháp trong kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 71 để bảo đảm rõ người, rõ việc, rõ kết quả.

Kết luận: Nhân tài thực sự là nguyên khí quốc gia, là động lực then chốt cho phát triển quốc gia mạnh mẽ và bền vững. Khi đất nước đặt mục tiêu vươn lên sánh vai với các cường quốc, xây dựng đất nước phồn vinh, hùng cường, thì phát hiện đúng người tài, đào tạo toàn diện người tài (cả tài và đức) và sử dụng nhân tài một cách hiệu quả là nhiệm vụ chiến lược không thể chậm trễ. Chúng ta phải đặt nhân tài vào vị trí trung tâm trong mọi hoạch định: từ giáo dục phổ thông đến nghiên cứu khoa học cao cấp, từ quản lý nhà nước tới doanh nghiệp, từ trong nước tới toàn cầu. Nếu làm tốt điều này, sẽ không chỉ giữ được “nguyên khí” mà còn phát huy được sức mạnh để xây dựng một Việt Nam mới - phát triển nhanh, bền vững, sáng tạo và toàn diện.

Khuyến nghị: Nhà nước cần sớm xây dựng chính sách đột phá, vượt trội và thật khả thi về phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng gắn với trách nhiệm đối với nhân tài, mũi nhọn để phát triển đất nước trong giai đoạn mới và hằng năm cần có đánh giá hiệu quả của chính sách để rà soát, điều chỉnh liên tục phù hợp với thực tế. Thực hiện việc này cũng là để cụ thể hóa Kết luận số 205-KL/TW của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá trong tuyển dụng, bố trí, sử dụng, đãi ngộ cán bộ ban hành ngày 7/11/2025.

GS,TS NGUYỄN NGỌC HÀ Phó Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng, Bộ Giáo dục và Đào tạo

GS,TS HUỲNH VĂN CHƯƠNG Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng, Bộ Giáo dục và Đào tạo

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/tu-phat-hien-den-phat-huy-nhan-tai-trong-giai-doan-moi-cua-dat-nuoc-post924241.html