Từ thành phố sông hồ xưa đến Hà Nội cứ mưa là ngập
Hoàn lưu bão số 10 và 11 đầu tháng này khiến cả thành phố Hà Nội mưa lớn kéo dài, gây ra úng ngập nhiều điểm. Hai đợt ngập úng tiếp nối những trận ngập lụt mỗi khi Hà Nội mưa to. Rõ ràng hệ thống tiêu thoát từ lâu đã có vấn đề.
Mùa thu năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra vùng đất có thế “rồng cuộn, hổ ngồi”, lập kinh đô Thăng Long trên thành Đại La.
Các nhà khảo cổ khi khai quật Hoàng thành (phố Hoàng Diệu) đã tìm thấy cống từ thời Lý được xây bằng gạch. Cống này thấp dần về phía Đông, chứng tỏ muộn nhất từ thời Lý, người xưa đã dựa vào địa hình kinh đô Thăng Long - cao ở phía Tây và Bắc, thấp dần về phía Đông và Nam - để tiêu thoát nước mưa và nước thải sinh hoạt.
Tiêu thoát dựa vào địa hình tự nhiên
Xưa, Hà Nội có nhiều sông hồ nên được gọi là thành phố sông hồ. Khu vực nội đô có hồ Ngọc Khánh, Thành Công, Giảng Võ, Văn Chương, Huy Văn… Bên ngoài thành, phía Bắc có Hồ Tây, Trúc Bạch, phía Đông có hồ Mã Cảnh (tương ứng khu vực Hòe Nhai, Hàng Than đã bị lấp).
Dưới Mã Cảnh có hồ Thái Cực (khu vực Hàng Đào), Lục Thủy (phía Bắc của hồ này nay là Hồ Gươm). Phía Nam có hồ Thiền Quang, Long Hồ (bao gồm hồ Ba Mẫu và Bảy Mẫu hiện nay) có đầm Kim Liên, Vọng… Xa hơn nữa về phía Nam lại càng có nhiều hồ, đầm rộng lớn.
Ngoài hồ, Hà Nội còn có vô vàn ao tự nhiên và nhân tạo. Ao nhân tạo hình thành từ đời Trần, Lê, Nguyễn khi người ta đào lấy đất để đắp đê. Vào mùa hanh khô, hồ ao có vai trò tích nước phục vụ dân sinh. Vào mùa mưa lũ, hồ ao có vai trò điều hòa. Người xưa liên thông các hồ với nhau bằng các con mương lộ thiên. Ngoài hồ ao, bao quanh thành Thăng Long có sông Hồng, nội đô có sông Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét.

Đường phố Hà Nội hóa sông sau mỗi đợt mưa lớn. Ảnh: Hoàng Hà
Vào mùa mưa bão, nước mưa từ trong kinh đô và làng ngoài thành chảy vào hồ. Vì có mương liên thông nên nước chảy tự nhiên từ hồ cao xuống hồ thấp, sau đó đổ vào sông Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ và Sét. Từ các con sông này, nước lại chảy tự nhiên vào sông Nhuệ rồi ra sông Đáy, sau đó thoát ra biển.
Việc dựa vào địa hình có nhiều cái lợi song vẫn bị động. Nếu mưa to bão lớn kéo dài trên diện rộng khiến nước sông Nhuệ, sông Đáy dâng cao dẫn đến tiêu thoát chậm thì kinh thành sẽ úng ngập. Tuy nhiên, không thấy sử cũ chép Thăng Long ngập lụt do mưa. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chỉ chép thời Lý, Trần, Thăng Long ngập lụt do nước sông Hồng, sông Tô Lịch dâng cao tràn qua đê hoặc đê bị vỡ.
Năm 1882, thực dân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ 2 rồi chiếm Hà Nội. Sau đó, họ quy hoạch lại khu vực phố cổ, xây phố mới ở phía Đông và Nam hồ Gươm theo kiểu đô thị phương Tây.
Để có đất xây phố, mở đường, chính quyền khi đó đã lấp đoạn sông Tô Lịch từ Chợ Gạo đến cổng trường Bưởi (nay là Chu Văn An), lấp hồ Thái Cực, Hữu Vọng (phía Nam hồ Lục Thủy xưa). Họ thay mương lộ thiên bằng cống ngầm có đường kính lớn. Tại khu vực phố cổ và phố mới, họ cũng làm hệ thống cống ngầm.
Cống ngầm ở các phố đổ ra các hồ và từ hồ chảy vào sông rồi xuống phía Nam thành phố. Ở phía Bắc thành phố, nước mưa và nước thải chảy vào hồ Trúc Bạch qua cống trên đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên) sang Hồ Tây. Vì thế, từ khi sông Thiên Phù và Tô Lịch không còn, hai hồ này chỉ chứa nước thải và nước mưa. Khi mưa lớn, nước hai hồ dâng cao sẽ chảy vào sông Tô Lịch.
Nước thải và nước mưa ở hai bên các phố Hàng Ngang, Hàng Đào theo cống chảy ra Hồ Gươm, nên một thời nước hồ này bị ô nhiễm. Cơ bản suốt thời kỳ Pháp đô hộ Hà Nội, việc tiêu thoát nước hoàn toàn dựa vào địa hình tự nhiên như thời kỳ phong kiến.
Năm 1915, đê Liên Mạc bị vỡ, nước tràn vào trong đê gây ngập úng cả vùng rộng lớn phía Tây thành phố. Do không có sông tiêu nên thời gian ngập úng khá dài. Để có nước tưới và tiêu úng ở khu vực này, năm 1932, chính quyền lập dự án xây cống Liên Mạc lấy nước sông Hồng, cho đào một đoạn sông mới từ Liên Mạc nối với sông Nhuệ cũ ở khu vực Cổ Nhuế, đồng thời nạo vét bùn đất từ Cổ Nhuế đến Phủ Lý (tỉnh Hà Nam).
Nhưng cơ chế của chính quyền khi đó cũng nhiêu khê, vì thế, mãi đến năm 1937, dự án mới được thực hiện và hoàn thành năm 1940. Đây là hệ thống thủy lợi đầu tiên ở miền Bắc thực hiện 2 nhiệm vụ tưới và tiêu.
Đến tiêu thoát chủ động
Lâu nay, người ta vẫn quan niệm chính quyền Pháp quản lý đô thị bằng luật rất nghiêm khắc, nhưng thực tế không phải như vậy.
Hai bờ sông Tô Lịch, Kim Ngưu, Sét, Lừ trở thành nơi đổ rác thải xây dựng, dân tứ chiếng dựng lều lán sinh sống. Vì thế, lòng sông dần bị thu hẹp. Minh chứng là nhà thơ Trần Huyền Trân đã mô tả những ngôi nhà lá ngay sát đoạn sông Kim Ngưu chảy qua phố Khâm Thiên - nơi các cô đầu thuê trọ - quanh năm bốc mùi hôi thối và muỗi vo ve cả ban ngày.
Sông Nhuệ, sau lần nạo vét năm 1939 thì cho đến năm 1954 không được nạo vét, dẫn đến tốc độ dòng chảy tự nhiên chậm dần, nên hiệu quả việc tiêu thoát lợi dụng địa hình tự nhiên đã kém đi.

Ngập úng ở Hà Nội. Ảnh: Hoàng Hà
Trong thập niên 40 của thế kỷ 20, những phố trũng thấp khu vực nội đô thường xảy ra úng ngập khi mưa lớn kéo dài. Để giải quyết vấn đề này, năm 1960, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quyết định chuyển từ tiêu thoát tự nhiên bị động sang tiêu thoát chủ động bằng việc xây dựng các trạm bơm.
Từ năm 1960-1973, có 41 trạm bơm tiêu nước ra sông Nhuệ, sông Đáy, Châu Giang được xây dựng ở các tỉnh Hà Tây, Hà Nam. Tại Hà Nội, có hai trạm đặt ở Vĩnh Tuy và Đông Mỹ. Mỗi khi mưa lớn, nước dồn về phía Nam, hai trạm sẽ bơm nước ra sông Hồng.
Riêng trạm Đông Mỹ được thiết kế để thêm nhiệm vụ cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp ở huyện Thanh Trì. Trạm này được lắp 24 máy công suất 1.000m3/h. Tuy có 2 trạm bơm song khi mưa lớn và dài ngày, khu vực nội đô và phía Nam thành phố vẫn úng ngập. Các năm xảy ra úng ngập lâu là 1964, 1967, 1968, 1969.
Năm 1967, mưa lớn, nước Hồ Gươm tiêu thoát qua cống Hàng Khay rất chậm khiến nước dâng cao, ngập đường Lê Thái Tổ. Bị thiếu ô xy, rùa lớn đã bò lên đường, suýt nữa bị ngành thương nghiệp xẻ thịt. Nhờ sự can thiệp kịp thời của Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố là ông Trần Duy Hưng nên rùa được giữ lại để ướp xác. Một tiêu bản ở đền Ngọc Sơn chính là con rùa này.
Vì hệ thống cống ngầm xây dựng từ thời Pháp đô hộ có đường kính nhỏ lại luôn trong tình trạng ứ đọng nên bùn, cát, rác đã gây ra tắc nghẽn dòng chảy. Hệ thống hồ chứa nhiều năm không được nạo vét nên trong thập niên 1970, 1980, cứ mưa to là nhiều điểm ở nội đô úng ngập.
Trước thực trạng đó, dự án Quy hoạch tổng thể tiêu thoát nước Hà Nội giai đoạn 1995-2010 được lập và ngày 7/8/1995, Thủ tướng đã ký duyệt. Theo đó, thành phố bỏ trạm bơm Vĩnh Tuy, xây trạm mới ở Yên Sở với 20 tổ máy công suất 3-5m3/s; thay cống ngầm cũ bằng cống mới có đường kính lớn ở các tuyến phố chính; cải tạo sông Tô Lịch; kè bờ bằng đá các hồ khu vực nội đô...
Dự án được thực hiện bằng vốn ODA của chính phủ Nhật Bản. Sau nhiều năm thi công, năm 2010, dự án được hoàn thành và đã cải thiện đáng kể tình trạng tiêu thoát nước và úng ngập. Tuy nhiên, dự án nằm trong quy hoạch tổng thể Hà Nội nên chỉ phát huy hiệu quả cao nhất khi quy hoạch được thực hiện nghiêm.
Nhưng tiếc rằng vì lý do nào đó, nhiều hồ ao trong nội đô và ngoại ô đã bị lấp. Ngay cả khi ở phía Tây thành phố có thêm trạm bơm Yên Nghĩa thì vẫn cứ úng ngập vì quản lý đô thị có vấn đề. Đó là tình trạng xây dựng không theo cốt nền, khu vực xây sau cao hơn khu vực xây dựng trước đã dẫn đến úng ngập cục bộ. Ở nhiều phố, mỗi lần trải nhựa mới người ta thường “quên” cào bỏ lớp nhựa cũ dẫn đến mặt đường ngang bằng vỉa hè, ngõ có nơi cao hơn. Do vậy, mưa là… ngập.
Thiên nhiên khó lường, không thể đoán biết. Sức mạnh của nó đôi khi thật khủng khiếp, vì thế ngay cả những đô thị quy hoạch hoàn hảo cũng khó tránh khỏi úng ngập khi mưa lớn kéo dài. Đại diện của công ty thoát nước cho rằng Hà Nội chỉ chịu được ở mức 310mm/48h.
Như vậy, hệ thống thoát nước hiện nay không đáp ứng cho tiêu thoát khi mưa lớn hơn, thời gian dài hơn. Nếu thế, bao giờ Thủ đô mới không còn cảnh “phố giống như sông”?