Từ trang sách: Trịnh Bá Sướng - Lang thang tìm lại hương tình yêu bất diệt
Nhà thơ Trịnh Bá Sướng sinh năm 1952, quê ở Yên Nghĩa (Hà Đông, Hà Nội) từng trực tiếp tham gia 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972.

Minh họa/INT
Trở về từ khói lửa, ông mang theo ký ức không thể phai mờ của một người lính, để rồi kết tinh chúng trong những vần thơ chân thành, mộc mạc mà ám ảnh.
Cùng với “Tơ lòng” “Mùa hoa xoan”, “Trăng quê”, tập thơ “Dọc miền ký ức” là cuộc trở về của nhà thơ với những ngày khói lửa, với đồng đội, với tuổi trẻ và với những vùng quê bình dị.
Trong thơ Trịnh Bá Sướng, người lính luôn là trung tâm của nỗi nhớ, là hình tượng xuyên suốt hành trình thi ca, vì thế mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa nhân văn trong chiến tranh, nơi người lính hiện lên không chỉ như chiến sĩ mà còn là những con người biết yêu, biết nhớ, biết rung động trước cái đẹp của đời.
Ngay cả khi viết về chiến tranh, ông vẫn giữ được chất giọng điềm tĩnh, lạc quan:
“Một thời hoa lửa
Lại sầm sập ùa về
Với tôi thời hoa lửa
Chiến tranh không còn nữa
Mà như vẫn quanh đây...”
(Một thời hoa lửa)

Tập thơ 'Dọc miền ký ức' do NXB Hội Nhà văn ấn hành.
Chiến tranh đi qua, nhưng dư âm của nó vẫn thẳm sâu trong tâm hồn người lính. Những câu thơ như lời độc thoại của ký ức, khi quá khứ và hiện tại hòa vào nhau, khiến người đọc cảm nhận được cái nhức nhối của thời gian và niềm biết ơn thầm lặng với những người đã khuất.
Một trong những bài thơ xúc động trong tập là “Tâm sự hai người lính già”, nơi nhà thơ đối thoại cùng đồng đội năm xưa:
“Một người đã gửi lại
một cánh tay ở chiến trường,
Một người vừa bước qua
khói lửa 81 ngày đêm.
Hai mảng đời trong giây phút bình yên
Như sống lại thời chiến chinh xa ngái...”
Câu thơ giản dị mà ám ảnh, không cần phô trương, không bi thương. Giữa khoảnh khắc bình yên, họ vẫn “ước ao ngày xanh xưa trở lại/ để lên đường bảo vệ dải non sông”. Chính cái “ước ao” ấy đã làm bật lên phẩm chất thiêng liêng của người lính Việt Nam, sống trọn với lý tưởng, ngay cả khi tuổi già đã phủ bạc mái đầu.
Bên cạnh mạch thơ chiến tranh, Trịnh Bá Sướng còn viết nhiều về tình mẹ, tình cha, tình quê hương và tình yêu con người:
“…Nhở nham bên bậu cửa mòn
Vết dao ngang dọc
con còn dấu xưa
Đây rồi cánh võng đay thưa
Lời ru… mẹ đuổi nắng trưa
ơi à…”
(Con về thăm mẹ)
Và trong bài “Thăm mộ bố” ông viết:
“…Nhẹ nhàng vạch cỏ
châm hương
Con đây, bố đấy âm dương
cách vời
Chắp tay khấn lạy đôi lời
Chỉ nghe gió lạnh bời bời…
Bố ơi…”
Những câu thơ mang âm hưởng dân dã, chân quê. Chỉ cần đọc tên đã thấy “lao xao” một miền xúc cảm, nghe như tiếng bước chân trở về của người con xa xứ. Thơ ông ở đây không triết lý cao siêu, mà là những rung động thật thà, tựa như lời trò chuyện giữa người với người, khiến người đọc như tìm thấy mình trong đó.
Ở một chiều cảm xúc khác, “Dọc miền ký ức” cũng chan chứa những bài thơ về thiên nhiên và tình yêu cuộc sống:
“Tôi đi về phía chân mây
Gió đông, nắng hạ giăng
đầy chông gai
Tôi đi về phía ban mai
Hoa thơm trái ngọt trải
dài thiên thu...”
(Tôi đi)
Đó là lời khẳng định của một người từng bước qua bão tố mà vẫn giữ vẹn niềm tin vào ngày mai. Hình ảnh “phía ban mai” không chỉ là phương hướng, mà là ẩn dụ cho ánh sáng của cuộc đời, của hi vọng và của tự do.
Không dừng lại ở hoài niệm, thơ Trịnh Bá Sướng trong “Dọc miền ký ức” còn mang sắc thái tươi mới và lãng mạn của thời bình. Ở những bài như “Tam Đảo nên thơ”, “Xuân cảm”, “Tỏa nét người”, “Nợ em”, người đọc bắt gặp một Trịnh Bá Sướng khác, nhẹ nhõm, đằm sâu, tinh tế. Trong bài “Tự sự”, ông chiêm nghiệm:
“Đời người như một giấc mơ
Bình minh vừa rạng
đã mờ hoàng hôn
Xoay vần theo nhịp sóng dồn
Sang hèn, thớ lợ –
cũng tròn hóa sinh...”
Những câu thơ ngắn, nhịp điệu chậm, tựa như tiếng thở dài của một kiếp người từng trải. Ở tuổi xế chiều, ông nhìn đời bằng ánh mắt vị tha, thấy cả thăng trầm rồi cũng chỉ là cát bụi, nhưng cái còn lại là tình yêu - thứ tình cảm hóa giải mọi phôi pha.
Và khi cần, Trịnh Bá Sướng vẫn giữ được nụ cười tinh nghịch, hóm hỉnh của người lính năm xưa. Như ở bài “Nhớ vợ”, ông viết:
“Vợ sang chơi tận trời Tây
Để anh vò võ đêm ngày
ngóng trông
Thất thường bữa có,
bữa không…”
và câu kết:
“Mấy tuần mình tạm cách xa
Mà sao anh thấy như là
bao năm...”
Cái “nhớ vợ” ấy vừa đáng yêu, vừa chân thực, thể hiện nét duyên của người lính già biết đùa mà vẫn thắm đượm tình cảm. Chính sự đa thanh trong thơ - khi sâu lắng, khi hồn nhiên, đã tạo nên hơi thở riêng của Trịnh Bá Sướng, khiến người đọc nhận ra rằng: ông không chỉ là người viết về chiến tranh, mà là người sống với trọn vẹn những cung bậc của đời. Còn khi ông tự ru mình thì:
“… Bốn mùa say cảnh mê thi
Gia đình bè bạn ngãi
thì thâm sâu
Vườn xuân ngõ hạnh
muôn màu
Tương giao huynh đệ
bớt đầu pha sương…”
Nhà thơ Trịnh Bá Sướng là hiện thân của thế hệ “thơ từ trong khói lửa bước ra”. Ông không chỉ làm chứng cho lịch sử, mà còn thắp sáng lại ký ức bằng ngôn ngữ thi ca. “Dọc miền ký ức” vì thế không chỉ là một tập thơ, mà là một hành trình nhân bản, nơi người đọc tìm thấy tình yêu quê hương, lòng tri ân và niềm tin bất tận vào cuộc sống.
Nhà thơ Trần Trọng Giá từng nhận định: “Cái còn mãi trong văn chương Trịnh Bá Sướng chính là hương của tình yêu. Cho dù người không bao giờ về, thì hương cũng không bao giờ mất”. Quả vậy, Trịnh Bá Sướng – người lính năm xưa, nay vẫn “lang thang đi tìm lại hương của tình yêu bất diệt” – thứ hương tỏa mãi trong từng câu thơ, từng hơi thở của đất trời, như lời tri ân với quá khứ và niềm tin gửi lại cho mai sau.













