Vai trò của tình báo Anh tại chiến địa El Alamein, Ai Cập

Làm thế nào mà hoạt động gián điệp, các nhà phá mã đã quyết định cơ hội lật ngược thế cờ ngay tại chiến trường El Alamein trong Thế chiến II? Tài liệu dưới đây sẽ kể một câu chuyện tình báo hết sức ly kỳ về việc này.

Nỗi sợ “quá muộn” của Winston Churchill

Tháng 7/1942 là thời điểm đánh dấu sự kết thúc của Phe Trục tại Châu Phi: thất bại của Đức Quốc xã (ĐQX) trong việc chinh phạt Trung Đông. Thêm nữa là việc lộ sáng một hoạt động gián điệp kỳ lạ dẫn đến cuộc chiến và kết quả của nó. Chiến thắng trong cuộc đấu trí bí mật đã diễn ra cả trước khi chiến thắng trên chiến trường.

Binh lính tham gia trận chiến El Alamein trong Thế chiến II trên sa mạc Ai Cập. Ảnh nguồn: Keystone-France/Gamma-Keystone via Getty Images.

Binh lính tham gia trận chiến El Alamein trong Thế chiến II trên sa mạc Ai Cập. Ảnh nguồn: Keystone-France/Gamma-Keystone via Getty Images.

Mọi chuyện bắt đầu khi một thông điệp vô tuyến được gửi từ Bộ chỉ huy miền Nam của Luftwaffe (Không lực Đức) đến một chỉ huy hàng đầu ở Châu Phi ngay trước rạng đông của ngày 24/4/1942. Thông điệp mật đó có đoạn “Bộ chỉ huy cấp cao Anh đang có dự định phát động tấn công ở Libya. Mục tiêu là tiến về phía Tây bên ngoài cảng Benghazi, nơi sẽ cung cấp cho người Anh những sân bay đủ gần Malta để bí mật giấu các đoàn xe đang chạy đến hòn đảo Địa Trung Hải bị bao vây. Vì người Anh chưa thể hoạt động trước tháng 6 nên đoàn xe sẽ đến trễ”.

Các nhà mật mã học của quân đội ĐQX đinh ninh rằng bức điện tín được gửi bằng mật mã Enigma, xét về mặt toán học là không thể phá mã được. Nhưng một nhà điều hành mạng không dây tại Trung tâm đánh chặn Anh đã lắng nghe các dấu chấm và dấu gạch ngang của mã Morse, và ghi lại những chữ cái bị xáo trộn.

Từ đó, thông điệp được chuyển đến Bletchley Park (một lãnh địa ở vùng nông thôn của Anh), nơi trở thành ngôi nhà chiến tranh của cơ quan tình báo tín hiệu GCHQ. Khoảng 6 giờ chiều, bức điện đã được giải mã và nó được chuyển đến Hut 3 (thuộc lãnh địa), nơi chuyên trách xử lý thông tin tình báo lục và không quân.

Nhân viên đánh dấu “dịch gấp”. Rất ít người coi được phiên bản tiếng Anh của bản dịch vì phá mã Enigma là bí mật được bảo vệ nghiêm ngặt nhất nước Anh. Hai người nhận được bức điện mật bao gồm Tướng Claude Auchinleck (người đứng đầu Bộ chỉ huy Trung Đông của Anh tại Cairo) và “C” (người đứng đầu Cục tình báo nước ngoài MI.6 của Anh).

Khuya hôm đó, “C” đã chuyển bức điện được giải mật cho Thủ tướng Churchill. Churchill viết dòng chữ “đã quá muộn”. Trong khoảng một năm rưỡi, Đông Địa Trung Hải đã trở thành chiến trường chính cho quân Anh chiến đấu chống Ý, Đức. Nhà độc tài Benito Mussolini (người đang nuôi tham vọng tìm kiếm một đế quốc La Mã mới) đã hạ lệnh xâm lược Ai Cập từ Libya (một thuộc địa của Ý). Quân Anh phản công ở Ai Cập và đánh lui quân Ý. Vì thế Adolf Hitler đã cử các sư đoàn Đức đến Châu Phi dưới sự chỉ huy của Tướng Erwin Rommel.

Cuộc chiến diễn ra khắp miền Đông Libya. Benghazi và các thành phố khác đều bị tái chiếm 4 lần, và cả 2 phe cùng trút bom vào những khu vực này. Rommel mô tả chiến dịch ở Châu Phi là “cuộc chiến không hận thù”. Thông điệp Enigma được giải mật đã hé lộ nỗi sợ hãi của Churchill rằng sẽ hành động “quá muộn” và rằng Tướng Erwin Rommel luôn là một con bạc táo bạo, sẵn sàng tấn công phủ đầu.

Bản đồ các điểm trọng yếu trên mặt trận Đông Địa Trung Hải trong Thế chiến II. Ảnh nguồn: Mike Bechthold.

Bản đồ các điểm trọng yếu trên mặt trận Đông Địa Trung Hải trong Thế chiến II. Ảnh nguồn: Mike Bechthold.

Những cuộc đấu trí nghẹt thở ngoài chiến trường

Tại Bletchley Park, người đặt ra những câu hỏi nghi vấn là một phụ nữ 24 tuổi tên là Margaret Storey. Mùa Xuân năm 1942, các sĩ quan mật mã Anh cuối cùng đã xâm nhập vào các mạng của quân đội Đức ở Bắc Phi. Đến ngày 29/4/1942, họ đã thành công trong việc bẻ khóa một tin nhắn quân đội Đức, thông điệp có nội dung “Lực lượng tấn công Anh sẽ không bắt đầu trước ngày 1/6”.

Tại thời điểm này, thành công của họ trong việc đột nhập vào các máy mã của Trục phát xít đang tạo nên cơn ác mộng cho các chỉ huy của Bletchley Park, họ hiểu rằng người Đức và Ý đang phá các mã Anh. Margaret Storey làm công việc phân tích và đi lên từ cấp thấp nhất ở Bletchley Park. Những người phá mã ở Bletchley Park càng giỏi phá mã các thông điệp Enigma của quân Đức thì càng lòi ra nhiều bằng chứng rằng Berlin đang nhận thông tin giá trị cao từ bên trong tổng hành dinh Anh ở Cairo.

Trước lúc bình minh của ngày 27/5/1942, Rommel dẫn đầu lực lượng thiết giáp của mình khi họ vòng qua phần cuối các bãi mìn và công sự của Anh rồi tấn công bọc hậu. Đúng như nguồn tin đã chỉ ra, Rommel đã tấn công trước tháng 6. Một bức điện báo cho thấy các kỹ thuật viên của Không lực hoàng gia Anh đã thất bại trong việc bảo trì các chiến cơ do Mỹ sản xuất. Nguồn tin cho người Đức biết có bao nhiêu tăng Anh rời đi, và sự hiện diện của các lực lượng Pháp tự do ở Bir Hacheim – tiền đồn sa mạc đã chặn bước tiến về phía Tobruk của Rommel.

Người Đức cũng nhận báo cáo cho rằng người Anh “tin tuyệt đối” rằng phe Trục sẽ rút lui. Bà Margaret Storey nhận định rằng kẻ chỉ điểm là một điệp viên Đức. Các manh mối chỉ ra rằng người đó là một nhân vật khá uy tín, thường có mặt trong các buổi thảo luận của các chỉ huy Anh, tay đó đã đầu quân cho kẻ thù. Dưới áp lực dữ dội của quân Đức, ngày 10/6/1942, lực lượng Pháp tự do đã rút khỏi Bir Hacheim.

Tại Bletchley Park, một thông điệp dài “nguồn tốt” đã được giải mật, hé lộ rằng 1 tháng trước đó, nguồn đưa tin đã thăm các đơn vị Anh đang chuẩn bị chiến đấu. Nguồn tin báo cáo “Đào tạo theo chuẩn Mỹ”. Xét về logic chỉ có người Mỹ mới đưa ra cách đánh giá này, hoặc có hay không một đặc vụ Mỹ ở Cairo đã chuyển các báo cáo Mỹ cho tình báo Đức, hay người Đức đã đọc được mật mã được dùng giữa Cairo và Washington. Bletchley Park có một kênh tuyệt mật đến Cục tình báo tín hiệu (SIS – cơ quan đã tạo ra các mật mã Mỹ và phá mã địch) của Bộ Chiến tranh Mỹ.

Những thông điệp trên kênh tin tức này đã được ghi lại trong một cuốn nhật ký và được phân loại suốt hơn 60 năm. Cuốn nhật ký tiết lộ bức điện báo của Đức nói rằng lính biệt kích Anh sẽ tấn công 9 sân bay Đức ngay đêm ngày 12/6/1942. Vào thời điểm các nhà phá mã Anh giải ra được thông điệp này thì đã quá trễ để cảnh báo cho các lính biệt kích rằng người Đức đang đợi họ. Cuộc không kích thất bại.

Các cuộc điều tra âm thầm cho thấy thông điệp về các cuộc không kích của quân Anh đã được dịch trực tiếp từ Đại tá Bonner Fellers (tùy viên quân đội Mỹ ở Cairo, và rằng ông ta vẫn tiếp dùng Mật mã tình báo quân đội – MIC).

Đại tá Bonner Fellers, tùy viên quân đội Mỹ ở Cairo (Ai Cập). Ảnh nguồn: The Japan Times.

Đại tá Bonner Fellers, tùy viên quân đội Mỹ ở Cairo (Ai Cập). Ảnh nguồn: The Japan Times.

Các tài liệu tình báo được giải mật

Ngoại trưởng Ý, Galeazzo Ciano (con rể của Mussolini) viết trong nhật ký của mình rằng “Các bức điện tín từ nhà quan sát Mỹ ở Cairo, Fellers, khẳng định rằng người Anh đã bị đánh bại” và nếu Rommel tiếp tục hành quân thì có thể đến được kênh đào Suez. Rommel, một kẻ nghiện cờ bạc, đã đặt hết tiền vào một ván cược thật lớn và tung quân vào sâu trong Ai Cập nhằm truy đuổi đường rút lui của quân Anh.

Đó là ngày 23/6/1942. Một bằng chứng đáng lưu ý là vào ngày 23/6, Roosevelt và Tướng George Marshall đang nghiêng về việc gửi một sư đoàn thiết giáp Mỹ đến Ai Cập nhằm tiếp viện cho quân Anh, nhưng đến cuối ngày 25/7 thì đề xuất đó bị loại bỏ vì phi thực tế. Theo Ugo Cavallero (tham mưu trưởng quân đội Ý) thì lệnh hủy bỏ đã được mã hóa trong một mật mã thay thế, việc này làm cản trở các nhà giải mã của phe Trục.

Bộ Chiến tranh Mỹ hứa hẹn sẽ đổi mật mã sớm một tuần trước khi Tobruk thất thủ. Một sĩ quan tình báo Mỹ (người đã ghé Bletchley Park một năm sau đó) giải thích rằng Bộ Chiến tranh đã viết thư cho Fellers và hạ lệnh ông phải đổi mật mã vào ngày 17/6. Sau khi được mã hóa, các bức điện tín được gửi thương mại thông qua Tập đoàn vô tuyến Hoa Kỳ (RCA).

Viên sĩ quan tình báo Mỹ giải thích: “Vì một lý do mơ hồ nào đó mà RCA không gửi được thông điệp”. Có vẻ như bức điện tín đã lạc đâu đó, và thay vì nghi ngờ kẻ bội phản thì có lẽ là sự bất cẩn”. Đến buổi chiều ngày 25/6/1942, Thống chế Claude Auchinleck đưa ra 2 quyết định: 1) Bay đến sở chỉ huy trận chiến tại Mersa Matruh và cách thức chỉ huy Tập đoàn quân số 8 là Neil Ritchie và bản thân Auchinleck nắm quyền chỉ huy trên thực địa; 2) Di chuyển tuyến phòng thủ chính lùi xa hơn gần Delta, một lực lượng còn lại sẽ ở Mersa Matruh nhằm làm chậm bước tiến của quân Trục.

Phần lớn tập đoàn quân số 8 đã lùi xa hàng trăm dặm đến một nơi gọi là El Alamein: một vùng đất thấp không thể vượt qua được, bao quanh bởi những vách núi đá. Lần này, Rommel không thể đánh bọc hậu phòng tuyến của quân Anh. Ngày 29 tháng 6, quân đội phe Trục đã vượt qua Mersa Matruh. Các chỉ huy Đức biết có một “tiền đồn mạnh” của Anh ở El Alamein nhưng cho rằng sẽ chóng dẹp được.

Ý đồ của việc đó đã được giải mã trong một tin nhắn ở Bletchley Park. Dây chuyền phá mã đã mang lại nhiều thông tin tình báo giá trị hơn cho Thống chế Auchinleck, bao gồm chi tiết về các kế hoạch chiến đấu của Tướng Rommel. Thay vì tấn công bất ngờ thì Auchinleck lại phòng thủ bất ngờ. Vào ngày 1/7/1942, khi lực lượng phe Trục tiến đến El Alamein, 2 sư đoàn thiết giáp Đức được giao nhiệm vụ tăng tốc giữa các vị trí Anh và tấn công bọc hậu. Đột nhiên họ cảm thấy mình bị chặn bởi một lữ đoàn Ấn Độ.

Lính bộ binh Đức đã đập tan một sư đoàn Nam Phi mà ngay cả chính Rommel cũng không mảy may hay biết về sự tồn tại của lực lượng đó. Đến đêm thứ 3 thì Rommel nói với chỉ huy tối cao Đức rằng “tình hình tiếp viện cho quân đội Đức đang bấp bênh” và buộc dừng tấn công. Những thông điệp Enigma được giải mã cho thấy các lực lượng thiết giáp Đức đang rất thiếu thốn nhiên liệu và đạn dược. Hậu cần luôn là điểm yếu trong kế hoạch của Rommel, ông ta muốn nhanh chóng tiếp quản cảng Alexandria (Ai Cập), nơi có các tàu Ý có thể cung cấp hàng tiếp tế.

Vào ngày 27/7 tức sau 2 tháng chiến đấu, quân đội Đức đã kiệt sức kể từ khi Rommel phát động tấn công. Trên bản đồ, các lực lượng Ý và Đức đã tiến được 400 dặm và cách cảng Alexandria 1 ngày đường. Thủ tướng Ai Cập, Mustafa al-Nahhas, đã yêu cầu Đại sứ Anh, Miles Lampson, rằng nếu có giao tranh ở Delta thì “các lực lượng Anh không được phá hoại các giếng dầu và nhà máy lọc dầu”.

Churchill bay đến Cairo, cách chức Auchinleck và bổ nhiệm Bernard Montgomery nắm quyền chỉ huy trong hoang mạc. Ba tháng sau đó, Montgomery phát động phản công quân đội Rommel và đánh dấu sự trượt dài của phe Trục. Tháng 6/1944, quân Đồng Minh chinh phạt Rome. Các điệp viên MI.6 đã tiến hành thẩm vấn 4 cựu thành viên của một đơn vị phản gián Ý có tên là Sezione Prelevamento. Và khi đó họ đã giải quyết được vấn đề “nguồn tin tốt”.

Đó là vào mùa Thu năm 1941 (chỉ trước khi Mỹ tham chiến) chỉ huy bộ phận Manfredi Talamo đã đột nhập vào đại sứ quán Mỹ ở Rome và mở khóa két sắt của một tùy viên quân sự. Ông lấy ra một cuốn sách mã của Mã tình báo quân sự (MIC) và đưa đến một hiệu photo cạnh tòa nhà, chụp từng trang rồi trả lại cuốn sách.

Trong vòng vài tuần, cơ quan tình báo tín hiệu Ý đã chặn các thông điệp từ Cairo. Đến tháng Giêng năm 1942, người Ý đã chia sẻ mã với đối tác Đức. Trong trận chiến mật, các nhà phá mã Rejewski, Turing, Welchman và Storey đã đánh bại Talamo. Nếu các thông điệp đã không được tìm thấy và gửi đi một tuần sau đó thì trận chiến đã diễn ra theo cách khác. Và Trung Đông cũng không như ngày hôm nay. Nếu điều đó xảy ra, không biết lịch sử sẽ thuộc về bên thắng cuộc nào.

Thanh Hải (Tổng hợp)

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/vai-tro-cua-tinh-bao-anh-tai-chien-dia-el-alamein-ai-cap-i677873/