Vai trò di sản văn hóa trong phát triển du lịch ở vùng các dân tộc thiểu số

Di sản văn hóa không chỉ là tiềm năng, nguồn lực của du lịch, mà còn trực tiếp tạo nên các sản phẩm du lịch di sản mang tính đặc thù.

Đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống ở nhiều cảnh quan sinh thái khác nhau, tạo nên sự độc đáo trong du lịch. Sự độc đáo đó càng được tô đậm khi mỗi một dân tộc còn lưu giữ một bản sắc văn hóa tộc người riêng biệt. Vì vậy, văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số thực sự là cơ sở, nền tảng để tạo ra sự hấp dẫn, sự đặc sắc trong các sản phẩm du lịch.

Du khách trải nghiệm trò chơi dân gian tại bản Cát Cát, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai.

Du khách trải nghiệm trò chơi dân gian tại bản Cát Cát, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai.

Di sản tạo cơ hội cho du lịch phát triển

Nói đến du lịch miền núi phía Bắc, không thể không nhắc đến những khu ruộng bậc thang kì vĩ của người Mông, người Dao, người Xá Phó, người Tày ở Mù Căng Chải (Yên Bái), Hoàng Su Phì (Hà Giang), Bát Xát (Lào Cai). Các loại hình canh tác trên nền đất dốc, trên ruộng bậc thang hay những thung lũng ven sông, ven suối đều tạo ra vẻ đẹp hấp dẫn của du lịch trải nghiệm nông nghiệp xưa. Chính tính đa dạng, phong phú các di sản văn hóa tộc người đã tạo nên sức hút cho du lịch di sản vùng dân tộc thiểu số.

Cũng nhờ thế, du lịch di sản ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tác động mạnh mẽ (cả mặt tích cực và tiêu cực) đến đời sống kinh tế - xã hội của người dân. Trước hết, du lịch di sản góp phần chuyển đổi sinh kế, nâng cao thu nhập cho cộng đồng các dân tộc tham gia vào các chuỗi du lịch. Người Dao ở các xã Tả Phìn, Tả Van, Nậm Cang... của Sa Pa đã chuyển từ độc canh cây lúa sang làm du lịch. Những năm gần đây, mỗi năm các điểm du lịch của người Dao ở Sa Pa đón hơn 4 vạn du khách.

Ở một khía cạnh khác, các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc... đã quy hoạch và xây dựng các di tích trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu trên địa bàn tỉnh mình trở thành các điểm du lịch tâm linh hấp dẫn. Lượng khách đến các điểm du lịch tăng nhanh. Đơn cử như tỉnh Lào Cai, tổng lượng khách đến Lào Cai năm 2023 đạt hơn 7,2 triệu lượt, trong đó khách đến các khu du lịch tâm linh ước đạt hơn 3,5 triệu lượt.

Nhờ phát triển du lịch, nhiều di sản văn hóa bị mai một đã được phục hồi như nghề làm thuốc của người Dao, nghề thêu dệt thổ cẩm của người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình), người Mông, người Dao ở Sa Pa (Lào Cai), người Mông, người Pà Thẻn ở Hà Giang, người Tà Ôi ở Thừa Thiên Huế, người Chăm ở Ninh Thuận... Du lịch đã khơi dậy niềm tự hào về văn hóa truyền thống của dân tộc, người dân biết quý trọng di sản. Từ di sản đã sáng tạo ra nhiều sản phẩm du lịch mới hấp dẫn.

Để phát triển du lịch bền vững

Tuy nhiên, bên cạnh các ảnh hưởng tích cực, du lịch di sản còn có tác động tiêu cực đến di sản. Tất cả các di sản khi muốn trở thành sản phẩm du lịch đều phải trải qua một quá trình đặc biệt. Đó là quá trình “hàng hóa hóa” di sản. Một tấm thổ cẩm mặt chăn của người Thái muốn bán được cho du khách thì phải chế biến thành các túi đeo, túi đựng điện thoại, vỏ gối... Nghi lễ nhảy lửa của người Pà Thẻn, người Dao muốn trở thành sản phẩm du lịch cũng phải được sân khấu hóa, cắt gọt phần nghi lễ, bỏ không gian thiêng, tách phần nhảy lửa khỏi tổng thể tín ngưỡng mà chỉ còn tiết mục văn nghệ nhỏ lẻ là diễn xướng nhảy lửa. Như vậy, quá trình “hàng hóa hóa”, “thương mại hóa” di sản đã quy định sự “sản xuất”, biến di sản thành các sản phẩm du lịch. Quá trình này diễn ra không theo mùa vụ, chu kỳ hoạt động của di sản mà chủ yếu đáp ứng nhu cầu của du khách. Vì thế, các trích đoạn lễ cưới được diễn ra thường xuyên, quanh năm ngày tháng, trích đoạn lễ hội té nước không chỉ diễn ra trong ngày Tết người Lào, người Lự mà thường xuyên tổ chức quanh năm.

Mù Căng Chải (Yên Bái) hấp dẫn du khách với những ruộng bậc thang tuyệt đẹp.

Mù Căng Chải (Yên Bái) hấp dẫn du khách với những ruộng bậc thang tuyệt đẹp.

Quy trình “hàng hóa hóa” làm vừa lòng du khách, đáp ứng nhu cầu giải trí của du khách đã dẫn đến sự biến dạng của di sản. Có di sản tín ngưỡng mất hẳn không gian thiêng, trở thành trò biểu diễn đơn thuần, không gian thiêng đã mất, thời gian thiêng không còn thì di sản cũng bị giải thiêng, không còn vai trò của di sản. Một số điểm du lịch có giá trị về tâm linh, giá trị về nghệ thuật trở thành quá tải khi lượng khách đến đông. Các lễ hội của thôn bản xưa chỉ đón khách ở thôn bản hoặc một số khách không nhiều của cả vùng. Nhưng hiện nay, các di sản này không tính đến sức chứa của điểm du lịch, phát triển quá “nóng” dẫn đến luồng khách hành hương ồ ạt đổ về một điểm du lịch có không gian hẹp. Các du khách không tuân theo chuẩn mực, quy tắc ứng xử của thôn làng đối với các vật thiêng. Họ tranh cướp vật thiêng dẫn đến lễ hội không tổ chức được. Một số lễ hội chưa chuẩn bị sẵn sàng (hoặc không dự báo được lượng khách tăng đột biến quá lớn) dẫn đến tình trạng quá tải, hệ thống dịch vụ bị phá vỡ hoặc không đáp ứng nổi nhu cầu của du khách. Lễ hội tổ chức chưa đến đỉnh điểm đã “vỡ hội”. Sự quá tải của các điểm du lịch tâm linh còn gây ra nhiều hậu quả về môi trường, về nếp sống văn hóa đối với cư dân bản địa...

Trong phát triển du lịch cộng đồng, du lịch tâm linh, du lịch về nguồn, du lịch trải nghiệm... vấn đề quan trọng hàng đầu là phải đề cao vai trò của chủ nhân di sản, nhưng hiện nay ở các làng bản, đồng bào dân tộc thiểu số giàu tài nguyên du lịch nhưng là người dân nghèo, thiếu vốn để kinh doanh du lịch. Các doanh nghiệp đã đổ xô đến các điểm giàu tài nguyên và chỉ đầu tư một ít cho dịch vụ, cơ sở hạ tầng. Họ thu nguồn vốn rất lớn nhưng người dân - chủ nhân của di sản chỉ được hưởng lợi với tỉ lệ rất thấp.

Một vấn đề khác, đó là phát triển du lịch không theo hướng bền vững, tất cả các cư dân đều xoay quanh du lịch không phát triển các ngành nghề truyền thống. Nhiều nơi du lịch phát triển quá "nóng", không bảo vệ được các cánh đồng ruộng bậc thang, nhà hàng khách sạn mọc lên chiếm hết đất, cảnh quan môi trường sinh thái bị ô nhiễm...

Từ những tác động tiêu cực của du lịch đối với di sản chúng ta thấy: Hành vi của du khách xung đột với di sản văn hóa của người dân (xung đột về lối sống, xung đột về sinh hoạt, khai thác các di sản...); cộng đồng người dân địa phương mất bản quyền về bảo vệ di sản văn hóa vào tay các doanh nghiệp; người dân là chủ nhân của di sản trở thành người đi làm thuê thực hành loại hình “nhại” di sản; xây dựng cơ sở hạ tầng quy hoạch làng bản thiếu khoa học, thiếu tầm nhìn về đa văn hóa, tôn trọng văn hóa tộc người dẫn đến tình trạng không có quy hoạch hoặc quy hoạch không phù hợp với đặc thù truyền thống dân tộc sở tại...

Phát triển du lịch di sản ở vùng các dân tộc thiểu số là một động lực quan trọng để xây dựng nông thôn mới, góp phần xóa đói giảm nghèo. Nhưng muốn phát triển du lịch di sản hiệu quả đòi hỏi phải bảo tồn, phát huy di sản văn hóa tộc người để xây dựng các sản phẩm du lịch mang tính đặc thù phù hợp từng vùng, không phát triển du lịch di sản phong trào theo kiểu “đại trà” mà cần phát triển theo hướng bền vững có quy hoạch, có chọn lọc. Mặt khác, phát triển du lịch di sản phải được nghiên cứu xây dựng các sản phẩm du lịch hấp dẫn, phù hợp với từng đối tượng du khách. Các sản phẩm du lịch này phải mang bản sắc riêng dựa trên tài nguyên du lịch ở từng địa phương, tránh tình trạng “na ná” giống nhau như hiện nay. Đặc biệt là phải xây dựng một chiến lược phát triển du lịch di sản hiệu quả, có những chính sách, cơ chế mang tính đặc thù.

Tiến sĩ Trần Hữu Sơn

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/vai-tro-di-san-van-hoa-trong-phat-trien-du-lich-o-vung-cac-dan-toc-thieu-so-694028.html