Văn hóa nhìn từ lăng kính pháp luật: Khi cái đẹp cũng cần khung pháp lý

Trong bối cảnh xã hội Việt Nam ngày càng mở cửa, tiếp nhận và kết nối với thế giới, thì văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích phát triển đa dạng, sáng tạo. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, sự phong phú ấy cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết, đó là cái đẹp không thể 'tự tung tự tác', thay vào đó cần một khung pháp lý rõ ràng để định hướng, bảo vệ và phân định chuẩn mực. Văn hóa và pháp luật - hai lĩnh vực tưởng chừng cách biệt, lại cần đứng cùng nhau để bảo vệ những giá trị nhân văn, thẩm mỹ và đạo lý cốt lõi của xã hội Việt Nam.

“Vùng trũng” giữa tự do sáng tạo và chuẩn mực

Trong những năm gần đây, không ít hiện tượng văn hóa - nghệ thuật đã khiến dư luận đặt câu hỏi: Đâu là giới hạn của tự do sáng tạo?

Đơn cử, thời gian gần đây, thị trường âm nhạc trong nước xuất hiện nhiều sản phẩm khiến người nghe phải “cau mày”. Cuối tháng 10/2025, Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy TP HCM đã có Công văn số 69-CV/BTGDVTU về việc đề nghị định hướng, chấn chỉnh hoạt động âm nhạc có biểu hiện lệch chuẩn văn hóa, nêu rõ nhiều ca khúc phát hành, biểu diễn và lan tỏa trên mạng xã hội sử dụng ngôn ngữ phản cảm, dung tục, thiếu chuẩn mực, làm sai lệch giá trị thẩm mỹ, đi ngược lại thuần phong mỹ tục. Công văn nêu cụ thể một số trường hợp ca sĩ và đề nghị cần cân nhắc không mời “nghệ sĩ có sáng tác, hành vi, lời nói, biểu diễn trái với thuần phong mỹ tục, lệch chuẩn văn hóa” dự các chương trình của thành phố.

Không chỉ ở âm nhạc, trong vấn đề trùng tu di tích, dù Luật Di sản văn hóa đã quy định rõ về việc bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích, nhưng trên thực tế, vẫn có những đơn vị thực hiện chưa đúng hoặc chưa đầy đủ, thậm chí thiếu trách nhiệm. Hậu quả là nhiều giá trị lịch sử, văn hóa quý giá đã bị xâm hại, thậm chí mất đi vĩnh viễn - điều mà không một nỗ lực nào sau này có thể bù đắp được…

Những ví dụ trên cho thấy rõ, không phải mỗi sáng tạo đều tốt, mỗi biểu diễn đều hợp chuẩn, mỗi trùng tu đều giữ lại được giá trị nguyên bản. Từ ca từ phản cảm, biểu diễn phản văn hóa, đến những phát ngôn lệch chuẩn của nghệ sĩ trên mạng xã hội hay việc trùng tu di tích sai phép, phá vỡ bản sắc gốc…, tất cả đều cho thấy khi ranh giới giữa tự do sáng tạo và giới hạn đạo đức ngày càng mong manh, thì câu hỏi “Pháp luật có thể bảo vệ cái đẹp đến đâu?” trở nên thời sự hơn bao giờ hết.

Văn hóa, theo nghĩa rộng, là tổng hòa của mọi giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Nhưng để các giá trị ấy được nuôi dưỡng, lan tỏa và không bị biến dạng, xã hội cần một “hàng rào mềm”, đó chính là pháp luật. Nếu thiếu khung pháp lý rõ ràng hoặc thực thi yếu, hậu quả sẽ lan rộng từ mất niềm tin, mất bản sắc đến tổn hại tinh thần quốc gia.

Để pháp luật “sống” cùng văn hóa

Trước khi nói tới vấn đề để pháp luật “sống” cùng văn hóa thì cần xác định pháp luật không chỉ là công cụ điều chỉnh, pháp luật còn là người bảo vệ thầm lặng cho di sản văn hóa, cho quyền sáng tạo và cho cả quyền được hưởng thụ văn hóa của người dân.

Từ nhiều năm nay, hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng bước hình thành một khung quản lý văn hóa toàn diện thông qua các đạo luật như: Luật Quảng cáo, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh, Luật Báo chí, Nghị định 144/2020/NĐ-CP về hoạt động nghệ thuật biểu diễn, Quy tắc ứng xử của nghệ sĩ do Bộ VH,TT&DL ban hành năm 2021, hay Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) năm 2024 có hiệu lực từ ngày 1/7/2025… Điều này thể hiện sự nỗ lực luật hóa các giá trị văn hóa không phải để kiểm soát sáng tạo, mà để ngăn ngừa lệch chuẩn và bảo vệ công chúng khỏi những sản phẩm “phản văn hóa”. Hay nói cách khác, văn hóa không thể phát triển tự phát, pháp luật chính là công cụ để định hướng, sàng lọc và khích lệ những giá trị chân - thiện - mỹ của đời sống nói chung và đời sống văn hóa nói riêng.

Nhờ khung pháp lý chặt chẽ, hàng nghìn di tích, danh thắng, lễ hội truyền thống được bảo tồn, phục hồi đúng quy chuẩn. Nhiều tác phẩm nghệ thuật được bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, giúp nghệ sĩ yên tâm sáng tạo. Cùng với đó, các quy định mới về phát hành phim, trò chơi điện tử, nội dung trên nền tảng số… đang từng bước thiết lập “văn hóa pháp quyền” trong không gian mạng, nơi ranh giới giữa sáng tạo và vi phạm chỉ cách nhau một cú nhấp chuột.

Nhìn rộng ra, pháp luật chính là sự cụ thể hóa của văn hóa ở cấp độ tổ chức xã hội. Một xã hội có văn hóa là xã hội biết thượng tôn pháp luật và ngược lại, một hệ thống pháp luật tiến bộ cũng phản chiếu trình độ văn hóa của quốc gia đó. Một nền văn hóa mạnh không phải là nền văn hóa có nhiều tác phẩm gây chú ý theo nhiều chiều khác nhau, mà là nền văn hóa có nhiều tác phẩm tử tế, được sáng tạo và lan tỏa trong khuôn khổ của pháp luật và đạo lý.

Pháp luật chỉ thực sự phát huy giá trị khi nó được chuyển hóa thành ý thức tự giác trong mỗi công dân - khi người nghệ sĩ tự thấy mình phải có trách nhiệm với khán giả, khi người trùng tu biết tôn trọng ký ức của tiền nhân, khi người dân hiểu rằng bảo vệ di sản là bảo vệ chính bản sắc của mình. Đó là lý do vì sao, bên cạnh hoàn thiện thể chế, Việt Nam cần xây dựng “văn hóa tuân thủ pháp luật” trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là văn hóa và truyền thông. Giáo dục thẩm mỹ, giáo dục công dân và tuyên truyền pháp luật cần được kết nối để hình thành “vòng tròn văn hóa - pháp luật - con người”, sao cho mỗi người dân đều nhận thức được rằng, sống và sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật cũng chính là cách tôn vinh văn hóa, thì đó mới chính là dấu hiệu của một xã hội văn minh, nhân văn và bền vững.

Sau Công văn số 69 của Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy TP HCM, ngày 27/10, Cục Nghệ thuật biểu diễn và Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử, Bộ VH,TT&DL đã có buổi làm việc về phương án chấn chỉnh và xử lý nghiêm tình trạng gần đây xuất hiện nhiều ca khúc có lời lẽ phản cảm, lệch chuẩn văn hóa. Tại buổi làm việc, Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn NSND Xuân Bắc nhấn mạnh nghệ thuật là cuộc sống, sân khấu là cuộc đời nhưng cuộc sống đó phải được chọn lọc mới trở thành nghệ thuật.

Thực tế đã và đang cho thấy, khoảng cách giữa quy định và thực tiễn vẫn còn. Có những trường hợp, chế tài hành chính là chưa đủ để ngăn chặn hành vi xâm phạm văn hóa hoặc hành vi “ngụy danh sáng tạo”. Giải pháp cho vấn đề này, nhiều chuyên gia cho rằng, “văn hóa cần một cơ chế pháp lý mềm, vừa nghiêm, vừa nhân văn” nghĩa là, ngoài xử phạt, phải có cơ chế giáo dục, định hướng và khích lệ cái đẹp bền vững.

Cũng theo Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn NSND Xuân Bắc, trong thời gian tới, Cục Nghệ thuật biểu diễn sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để vừa tạo hành lang pháp lý khích lệ sự sáng tạo, phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí, vừa bảo đảm việc quản lý nhà nước để nghệ thuật phát triển theo đúng định hướng và tuân thủ các quy định.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chấn chỉnh hoạt động âm nhạc, là một động thái cần thiết, kịp thời và thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của cơ quan lãnh đạo, quản lý văn hóa trong bối cảnh hiện nay. Nhưng cũng theo ông Sơn, văn hóa không phải là lĩnh vực để “trừng phạt” mà là không gian để “cảm hóa và khai sáng”. Do đó, thay vì “cấm sóng”, nên thiết lập cơ chế kiểm soát và phục hồi văn hóa. “Việt Nam là một quốc gia luôn đặt con người vào trung tâm của mọi chính sách, kể cả trong lĩnh vực văn hóa. Do đó, thay vì cấm sóng tuyệt đối, chúng ta cần quản lý, định hướng và giáo dục để giúp người nghệ sỹ nhận thức, sửa sai và phát triển”, theo ông Sơn.

Có thể thấy, trong hành trình xây dựng xã hội Việt Nam văn minh, nhân văn, pháp luật và văn hóa không phải hai đường thẳng song song mà là hai sợi dây đan chặt. Cái đẹp sáng tạo cần một khung pháp lý để trú ngụ và khung pháp lý chỉ thực sự “sống” khi được xây dựng từ cái đẹp vì con người và vì cộng đồng. Khi mỗi bản nhạc, mỗi di tích, mỗi buổi biểu diễn… được đặt trong khuôn khổ của trách nhiệm và pháp luật, thì văn hóa mới thực sự trở thành nền tảng của phát triển và pháp luật mới không chỉ là luật mà là tinh thần sống chung, sống có văn hóa của cả một dân tộc.

Theo nhiều chuyên gia, để pháp luật là công cụ bảo vệ và định hướng văn hóa thì pháp luật cần thực hiện ba vai trò rất rõ: định hướng (xác lập giới hạn giữa sáng tạo vừa phải và sáng tạo lệch chuẩn); bảo vệ (bảo vệ di tích, bảo vật, quyền tác giả, văn hóa cộng đồng trước việc bị thương mại hóa, bị phá hoại, bị biến dạng); xử lý và răn đe (khi có vi phạm, pháp luật cần chế tài đủ mạnh để răn đe).

Tuy nhiên, khung pháp lý dù chặt cũng không thể thay thế toàn bộ ý thức xã hội. Việc tạo dựng “văn hóa tuân thủ pháp luật” tức là mỗi người nghệ sĩ, mỗi nhà quản lý di sản, mỗi công dân đều thấy trách nhiệm của mình, mới là đích đến bền vững. Để làm được điều này cần hoàn thiện thể chế (rà soát luật, nghị định, hướng dẫn để loại bỏ chồng chéo, lỗ hổng; ban hành các quy định rõ ràng về trách nhiệm nghệ sĩ, nhà sản xuất, tổ chức biểu diễn); tăng cường thực thi (đầu tư nhân lực, công nghệ giám sát cho bảo tàng, di tích; kiểm duyệt nội dung bài hát, biểu diễn theo danh mục; phối hợp liên ngành để xử lý nhanh hiện tượng lệch chuẩn); truyền thông và giáo dục (nâng cao nhận thức của cộng đồng, nghệ sĩ hiểu họ không chỉ là sáng tạo mà còn là người gánh trách nhiệm văn hóa; người dân hiểu quyền và trách nhiệm của mình trong bảo vệ di sản và tiêu dùng văn hóa có chọn lọc).

Theo Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử, Bộ VH,TT&DL, cơ quan chức năng đang nỗ lực hoàn thiện hành lang pháp lý, cụ thể Nghị định số 144/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn đang được sơ kết và xin ý kiến chỉnh sửa, bổ sung; Nghị định số 38/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo đang được tham mưu chỉnh sửa và có những quy định bảo đảm đủ sức răn đe.

Hồng Minh

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/van-hoa-nhin-tu-lang-kinh-phap-luat-khi-cai-dep-cung-can-khung-phap-ly.html