Về hai từ láy 'sồ sề', 'sống sít'

Trong chuyên mục Cà kê chuyện chữ nghĩa số trước, chúng tôi đã nói về hai từ ghép bị nhận lầm là từ láy, đó là dằn dỗi và vùng vằng. Trong chuyên mục này, chúng tôi tiếp tục phân tích kết cấu đẳng lập của hai từ 'sồ sề' và 'sống sít'. (Phần để trong ngoặc kép là nguyên văn của Từ điển từ láy tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên - NXB Khoa học Xã hội, 2011; phần xuống dòng là trao đổi của chúng tôi):

* "SỒ SỀ tt. (kng). (thường nói về phụ nữ sau khi sinh nở). To béo ra bề ngang, trông xấu, không gọn. Sau lần sinh nở, chị ấy sồ sề ra".

Sồ sề là từ ghép đẳng lập [nghĩa đồng đại]: sồ gốc Hán là chữ thô 粗, nghĩa là to, lớn, vẻ không gọn gàng (như to sồ; Dạo này béo quá, người sồ ra); sề gốc Hán là chữ trệ 彘 nghĩa là con lợn/lợn nái, ở đây chỉ vẻ to sồ, hoặc thô kệch của người sinh đẻ nhiều lần, không còn sự gọn gàng (như gái sề; rổ sề; To sồ to sề; Gần sông cội mới ngả kề/ Đố ai bỏ được gái sề này đây - Ca dao):

- Đại Nam quấc âm tự vị (Hùinh Tịnh Paulus Của) giảng: “bề sề: bộ trải ra mà lớn”; “sề ngang, sề ra: tiếng nói về gái mới lớn mà hai bàn trôn (tức múi thịt hai bên mông - HTC) đã nở to ra”.

- Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức) giảng: “sồ • tt. To lớn: Măng sồ (măng-cụt to trái), to sồ.”; “sề • tt. Đã đẻ nhiều lứa: Lợn sề. • (B) Đã đẻ nhiều lần: Gái sề. • Nở-nang: Bề-sề”.

- Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức): “sồ • To lớn <>To sồ. Quả sồ. Văn-liệu: Xá chi vú xếch, lưng eo, sồ-sề (Trinh-Thử).”; “sề • Nói về con lợn cái đã đẻ <>Lợn sề. Nghĩa rộng: Nói về người đàn bà đã sinh nở nhiều lần<>Gái sề. Văn-liệu: Dù chàng ba thiếp bảy thê, Chàng cũng chẳng bỏ được nái sề này đâu (Ca dao)”.

Như vậy, sồ sề là từ ghép đẳng lập, không phải từ láy.

Tham khảo: Mối quan hệ ngữ âm THS [thôsồ] ta còn thấy trong các trường hợp khác như thải 汰sảy (sàng sảy); thiết 鐵sắt (sắt thép); thủ首 sỏ (đầu sỏ); mối quan hệ TRS [trệsề] ta còn thấy trong cách trường hợp khác như: trứu 縐 sồi (vải sồi); triết 哲 suốt (sáng suốt); mối quan hệ ỆỀ [trệsề] ta còn thấy trong cách trường hợp khác như nghệ 藝 nghề; thệ 誓thề; nệ 泥nề (nề hà); lệ 例lề (lề thói)...

* “SỐNG SÍT tt. (kng.). (Thức ăn) chưa được nấu kĩ, chưa chín (nói khái quát). Còn sống sít thế mà đã ăn à?”.

Tất cả các cuốn từ điển chúng tôi có trong tay đều thu thập và giảng chữ “sít” với 2 nghĩa là: 1. (danh từ): chim cỡ bằng con gà, chân cao, mỏ đỏ, lông đen ánh xanh, hay phá hoại lúa; 2. (tính từ): thật sát vào nhau, như không hề có khe hở ở giữa. Hai nghĩa này không thấy có liên quan gì đến chữ “sít” trong từ “sống sít”.

Vậy “sít” trong từ “sống sít” có nghĩa là gì?

Thực ra, chữ “sít” ngoài nghĩa “khít”, “sát vào nhau”, còn có nghĩa là “sát xuống”, “cạn sát”. Thế nên Đại Nam quấc âm tự vị (Hùinh Tịnh Paulus Của) mục “sít” sau khi giảng “Khít lấy; sát xuống; cạn sát” đã dẫn ra một số từ ngữ như “sít nồi: dính sát đáy nồi, đóng sát đáy nồi”; “cơm sít: Cơm sát xuống đáy nồi, bị lửa cháy khét”; “sống sít: chưa đến kì chín; nấu chưa chín”. Từ điển này còn dành riêng một mục cho “cơm sít” và giảng là “cơm cạn sát đáy nồi, gần muốn cháy”.

Ta có thể hiểu, “sít” trong “sống sít” là chỉ loại cơm sát dưới đáy nồi, bị cháy khét, cháy và cứng. Khi “sống” (sượng, cứng) hợp nghĩa với “sít” (thứ sát đáy nồi, bị cháy, cứng) tạo thành từ ghép đẳng lập “sống sít”, và mang một nghĩa mới: “[thức ăn, hoa quả] chưa chín [nói khái quát; hàm ý chê]”, như Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên - Vietlex) đã giảng.

Như vậy, về bản chất, “sồ sề” và “sống sít” đều là hai từ ghép đẳng lập chứ không phải từ láy.

Mẫn Nông (CTV)

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/ve-hai-tu-lay-so-se-song-sit-271177.htm