Vẹt ngực hồng - truyện ngắn của VŨ THỊ HUYỀN TRANG

Minh họa: PV

Minh họa: PV

Tháng trước thời tiết còn thất thường, nay nắng mai lạnh nên bà già cứ lần lữa mãi. Biết đâu thằng Cát về bất chợt, chăn chiếu cất đi thì nó ngủ bằng gì. Thằng Cát tính kỳ, nó không chịu được mùi lạnh lẽo, ẩm mốc của đồ vật để lâu ngày. Một năm đôi lần ghé qua nhà, Cát đứng ngoài cửa khịt khịt mũi càm ràm nhà cửa gì cũ ngắt. Mùi dầu gió, bã trầu khiến Cát dị ứng. Cũng phải, đời Cát bôn ba đây đó khắp nơi, làm sao có thứ gì kịp cũ. Chỗ nằm hôm nay, mai đã rời đi. Người nằm cạnh mình đêm qua, nay đã chẳng còn nhớ mặt. Cát không muốn dính líu, nhớ nhung gì với mảnh đất mình vừa mới rời đi. Cũng chẳng còn tha thiết nặng lòng, gắn bó với bất cứ ai. Đến cả căn nhà, nơi từng chôn nhau cắt rốn của mình, Cát cũng ơ hờ lắm. Đấy là thiên hạ bảo thế chứ bà già chưa từng trách con mình. Dù thằng Cát ngày nào đã bước sang tuổi năm mươi. Lần gần nhất về nhà tóc anh đã bạc như sương muối. Bà già giục anh đi nhuộm tóc biết đâu còn có người thương. Anh cười khùng khục đổ vật ra chõng tre ngoài hiên gáy ầm nhà. Anh quen ngủ ở những nơi thông thống gió trời. Hơn nửa đời người tay chưa từng khép cửa.

- Má để cửa đó. Nhỡ cha về.

Hồi bảy tuổi, tối nào Cát cũng dặn má câu ấy. Kể cả những đêm mưa gió, Cát cũng không cho đóng cửa. Anh nói “mưa to gió lớn thế này nhỡ không có chỗ nào trú ngụ, chắc là cha sẽ chịu về nhà”. Cát ngồi nhìn mưa rơi lõm cả nền sân đất trước nhà, mệt quá ngủ gục đi lúc nào không biết. Lúc tỉnh dậy trời đã sáng, mưa đã tạnh, người không về, chỉ vệt lõm ở sân là vẫn còn nguyên đó. Hệt như vệt lõm trong trái tim bé nhỏ của đứa bé ngóng trông người cha đã bỏ nhà đi. Lúc ấy Cát hay hỏi bà vì sao cha bỏ đi? Bà đâu biết. Ông ấy bỏ đi vì một người đàn bà nào đó. Cũng có thể chỉ đơn giản là xứ này buồn quá, vô vị quá mà ông ấy chỉ thích nơi ồn ào, náo nhiệt. Biết giữ làm sao? Ngay cả khi ông vuốt đầu thằng nhỏ hứa: “Mai mốt cha về” thì nhìn cái quay lưng dứt khoát không một lần ngoảnh lại ấy, bà già biết không có sự trở về nào cả. Lời hứa chỉ là để đứa trẻ yên lòng không chạy theo khóc lóc nắm níu tay chân. Mười tám tuổi thằng nhỏ năm xưa ngồi ở đầu hè bỗng nhiên cười khẩy nói: “Đúng là một cú lừa”. Từ đấy Cát không bao giờ đợi cửa…

Hai mươi tuổi, thằng Cát bỏ nhà đi, bắt đầu cuộc đời lang bạt khi biết tin người con gái mình thương đã rời quê đi tìm miền đất hứa. Thiên hạ chép miệng bảo: “Thằng ấy giống cha. Bạc”. Bà già biết thật ra Cát bỏ đi vì không muốn mình cứ mãi là người ở lại, mãi là kẻ đợi chờ. Nhưng Cát đâu biết rằng kể từ khi anh đi, cửa nhà cũng không bao giờ đóng. Đêm khuya, tiếng lá khô bị gió thổi loạt soạt ngoài sân, bà giật mình tưởng tiếng chân người. Có đêm, gió thổi cánh cửa va đập vào nhau, bà tỉnh giấc cất tiếng hỏi “Cát à?”. Cát không về vào những ngày mưa bão ủ ê như thế. Lúc ấy Cát say mềm trong một nhà trọ nào đó. Hoặc vạ vật đàn ca sáo nhị cùng tụi bạn sau giờ phơi mặt ở công trường. Cát sẽ về vào một ngày đẹp trời nào đó, lúc bà già đang lúi húi trồng mấy luống dưa leo, mấy hố bí gốc bầu, vừa ăn vừa bán. Cát nhìn quanh vườn thấy cây cối tươi tốt thì cười bảo:

- Xem ra vắng con, má sống cũng không đến nỗi nào.

Quẳng cái cuốc xuống đất, hái vội nắm rau tập tàng, bà già hỏi:

- Muốn ăn gì má nấu?

- Gì mà chẳng được má ơi. Cơm má độn khoai sắn cũng ngon.

- Đi ra ngoài học đâu cái tính xạo thế bay? Ngon mà bỏ nhà đi ăn cơm người miết.

- À thì…

Cát húp xì xụp một mạch mấy bát cơm chan với canh cua rồi nằm vật ra giường ngó lỗ hổng trên mái nhà nắng hắt vào le lói. Thằng Cát nghĩ mình tệ quá, để má sống một mình dột nát thế này. Cát bật dậy, cơm chưa kịp tiêu đã trèo lên mái nhà giữa trưa nắng mà lợp lại ngói, quét hết đống lá xoài khô rụng đầy máng xối. Thiên hạ bảo “đúng trời đày, chờ râm mát mà làm thì đã sao?”. Nhưng Cát vội lắm, thường sẽ đi ngay sau khi sửa lại cánh cửa bung bản lề, cái quạt điện liệt số, cột dây phơi lủng liểng. Tối đến bà sờ tới gối mới thấy Cát để lại ít tiền. Được cái trời thương, bà khỏe mạnh chẳng mất đồng tiền thuốc thang nào. Rau trứng vườn nhà, chỉ một năm vài ba đám cỗ nên tiền Cát cho bà vẫn cất kỹ trong góc tủ, chờ sau này mua tặng con dâu chút vòng vàng cho có với người ta. Mà Cát cứ lông bông mãi liệu có người nào chịu thương không?

Lần gần nhất Cát về có mang theo một con vẹt ngực hồng. Con vẹt ngó nghiêng nhìn bà già, gật gật đầu như chào hỏi. Con vẹt sặc sỡ với bộ cánh xanh rêu, ngực màu hồng, chiếc mỏ màu cam nhạt. Cái mỏ của nó đáo để lắm, tẽ lạc, nhằn lúa còn nhanh hơn cả người chứ chẳng đùa. Cát dặn:

- Má đừng có thò tay lại gần, cái giống này phũ lắm, nó mà mổ một cái thì tím cả tay chứ chẳng đùa.

- Nó biết nói không con?

- Mấy người ở chợ bảo chưa nghe nó nói bao giờ. Chủ cũ của nó bán thịt lợn ở chợ, ngày nào cũng say xỉn. Nó theo chủ ra chợ nhảy lung tung từ hàng này qua hàng khác. Mấy tháng trước chủ nó mất, con vẹt bơ vơ giữa chợ, con mang nó về nuôi. Con xa nhà nay đây mai đó nó theo con cũng tội. Thôi thì mang nó về làm bạn với má thay con, chắc cũng đỡ buồn.

- Để nó ở nhà rồi ai làm bạn với con?

- Lo gì má, bốn biển là nhà, bạn bè ở khắp nơi. Nó ở đây tốt hơn, lang thang chốn chợ búa mưu sinh lại học thói ăn nói bậy bạ. Không hay!

Lúc Cát đi, con vẹt dường như cũng hiểu. Nó ngó nghiêng nhìn theo bóng lưng Cát khuất dần ngoài ngõ, miệng kêu lên mấy tiếng chói tai. Két! Két! Thỉnh thoảng tiếng kêu của nó khiến bà giật nảy mình. Nửa đêm, tiếng kêu đơn độc vọng vào không trung khiến bà càng thấy nhớ con hơn.

Bà trở bệnh cứ nằm ho một chỗ. Nghe tiếng con vẹt kêu ầm ĩ hồi lâu, lại chẳng thấy bóng dáng bà cụ đâu nên hàng xóm ghé qua. Thấy bà ốm hàng xóm tính gọi Cát mà bà không cho. Nồi cháo hàng xóm nấu từ sáng đến chiều vẫn còn nguyên. Bếp không nhóm lửa, cửa nhà lạnh ngắt. Hàng xóm thấy vẫn cần phải gọi Cát về, kẻo nửa đêm trái gió trở trời bà cụ đi lại ngã ra đó ai hay. Nhận được cuộc gọi, Cát về ngay lúc nửa đêm. Két! Két! Con vẹt chào đón chủ bằng tiếng kêu mừng rỡ. Bà già mở mắt ra nhìn Cát hỏi “đói không con?”. Nhưng bà không thể dậy khỏi giường để nhóm lửa nấu món gì đó cho Cát như mọi khi nữa. Cát nhận ra má mình yếu thật rồi.

Bà già cất giọng yếu ớt nhắc Cát vào trong nhà nằm không gió. Cát đặt lưng lên giường, thấy chăn chiếu vẫn còn thơm mùi nắng, Cát chìm vào giấc ngủ. Nhưng vừa thiếp đi không bao lâu anh nghe thấy tiếng gọi “Cát ơi! Cát ơi!” liền tỉnh giấc. Anh chạy sang buồng thấy má vẫn nằm ngủ nên nghĩ mình mộng mị. Nhưng mấy đêm sau, anh vẫn nghe tiếng gọi “Cát ơi!” vẫn vang lên thảng thốt giữa giấc ngủ chập chờn. Tỉnh giấc lần này anh không ngủ nữa mà nằm im nghe ngóng xung quanh. Khi tiếng “Cát ơi!” vang lên một lần nữa anh nhận ra đó là tiếng của con chim vẹt. Nó biết nói từ khi nào sao anh chưa từng nghe má kể? Ngồi lặng yên trong đêm vắng lặng, anh như chợt hiểu ra gì đó, úp mặt vào đôi bàn tay bám đầy vôi vữa của mình mà khóc. Có phải những đêm Cát xa nhà, má vẫn thường thảng thốt gọi tên anh như thế? Tiếng gọi cất lên từ trái tim một người mẹ nhớ con đến loài chim còn thấu tâm can. Thế mà anh cứ biền biệt xa nhà…

Cát quẳng chiếc ba lô vào góc tủ, đi cắt tóc, cạo râu gọn gàng rồi trở về dựng lại giàn bầu đổ trong cơn bão. Bà già vực dậy sau cơn ốm chống gậy ra ngoài sân ngó Cát ngồi hì hụi sửa lại cái xe máy cũ. Cảnh tượng có vậy thôi mà cũng khiến bà già xúc động chùi nước mắt. Bởi bà biết Cát sẽ không đi đâu xa nữa. Cái xe đó lại rong ruổi cùng Cát đi xây các công trình khắp thôn xóm ở quê. Để trưa nào, tối nào cũng được về nhà ăn cùng má bữa cơm. Quây quần khuya sớm, vui vầy với những điều bình dị. Biết đâu có người thương rồi Cát sẽ lại yêu như chưa từng đau khổ. Tối ấy, trước khi đi ngủ, Cát tự tay khép cửa nhà sau bao ngày không đóng…

Nguồn Phú Yên: https://baophuyen.vn/93/322736/vet-nguc-hong-truyen-ngan-cua-vu-thi-huyen-trang.html