Vị Tiến sĩ cương trực nổi tiếng thanh bần, được dựng miếu thờ khi còn sống
Nguyễn Công Cơ sinh năm 1676, tại làng Xuân Tảo trong một gia đình nhà nho có truyền thống khoa bảng.
Không chỉ được chúa Trịnh nhận xét là người thẳng thắn sáng suốt, nói năng quả cảm, Tiến sĩ Nguyễn Công Cơ còn được người đời ngưỡng mộ vì sự thanh bần không lập cơ nghiệp riêng cho mình.
Tuổi trẻ tài cao
Nguyễn Công Cơ sinh năm 1676, tại làng Xuân Tảo (nay thuộc phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) trong một gia đình nhà nho có truyền thống khoa bảng. Thuở nhỏ, Nguyễn Công Cơ vốn là người thông minh đĩnh đạc, thông làu kinh sử. Khi lớn, văn của ông có nhiều bài cao siêu, nổi bật đạt đến độ xuất chúng.
Tương truyền có lần cha của quan Tham tụng Lê Anh Tuấn đến chơi nhà ông, khi thấy Nguyễn Công Cơ vừa ngoài đường về, ông cho gọi vào và ra một câu đối. Không do dự, Nguyễn Công Cơ ứng đối trôi chảy. Cha của quan Tham tụng Lê Anh Tuấn đã phải thốt lên khen là người có tư chất thông minh hiếm có.
Năm 13 tuổi, Nguyễn Công Cơ dự thi Hương khoa Đinh Mão niên hiệu Chính Hòa thứ 8 (1687) đỗ Tam trường. Năm 19 tuổi, ông dự thi Hương khoa Quý Dậu đỗ Hương cống.
Năm 23 tuổi, mùa Đông năm Đinh Sửu niên hiệu Chính Hòa thứ 18 (1697) đời vua Lê Hi Tông, ông dự khoa thi Hội trúng Tứ trường. Vào thi Đình, ông được ban Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân - là người trẻ nhất đỗ khoa thi năm ấy. Hiện tên tuổi, quê quán của ông còn được khắc trên bia Tiến sĩ đặt tại di tích Văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội.
Sau khi đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Công Cơ bắt đầu dấn thân vào chốn quan trường. Cũng từ đây, ông bỏ hết tâm huyết vào sự nghiệp phò vua giúp dân, được triều đình bổ nhiệm giữ chức Hiệu thảo trong Hàn lâm viện.
Năm 1703, chúa Trịnh Căn chọn người kế vị, con trưởng là Trịnh Vĩnh khi đó chết sớm nên phải lấy con thứ là Trịnh Bách làm thừa tự. Trịnh Bách lại mất sớm, Trịnh Căn phải lấy con của Trịnh Vĩnh (cháu đích tôn của Trịnh Căn) là Trịnh Bính làm thừa tự. Con của Trịnh Bính là Trịnh Cương (gọi Trịnh Căn là cụ nội) khi đó đã 18 tuổi.
Thế rồi Trịnh Bính cũng mất mà chúa thì tuổi đã cao, trong khi người thừa tự thì chưa ổn định. Chúa bèn triệu quan Bồi tụng là Nguyễn Quý Đức vào hỏi, Quý Đức thưa: Trọng trách trông coi việc nước và vỗ về quân sĩ thì phải thuộc về người chắt trưởng. Vậy cúi xin sớm định ngay danh phận rõ ràng để cắt đứt sự nhòm ngó.
Sau đó, chúa quyết ý lấy Trịnh Cương làm người thừa tự, làm tờ biểu xin vua tiến phong Trịnh Cương làm Khâm sai tiết chế thủy bộ chư dinh, hàm Thái úy, tước An Quốc công. Hơn một năm sau, các con của Trịnh Bách là Trịnh Luân và Trịnh Phất tìm cách chống lại Trịnh Cương.
Khi Trịnh Bách mất, Luân và Phất thấy mình là con Trịnh Bách - vị Tiết chế đã qua đời, lẽ ra phải được lập phong để nối nghiệp, nay chắt nội của Trịnh Căn là Trịnh Cương được quyền nên hai anh em câu kết với Đào Quang Giai làm bè đảng, mưu lật ngôi vị Trịnh Cương.
Khi đó, quan Hiệu thảo Nguyễn Công Cơ dò la và biết được cơ mưu, liền báo cho Trịnh Căn biết. Trịnh Căn sai bắt bọn này giam vào ngục và giao cho các quan đình úy tra hỏi. Họ đều nhận tội nên tất cả đều bị trị theo phép nước. Nguyễn Công Cơ được thăng Tả thị lang Công bộ.
Nhà ngoại giao đại tài
Lịch sử thời Lê trung hưng thời chúa Trịnh Cương phò vua Lê được đánh giá là thịnh trị hơn cả. Sự thịnh trị này có một phần không nhỏ tâm sức của nhà khoa bảng Nguyễn Công Cơ.
Ông là người đã góp phần đưa ra các chính sách cải cách kinh tế, xóa bỏ trang trại nhà giàu, phân định mốc giới ruộng đất tiến tới phân chia đất đai công bằng cho dân có ruộng cày; đổi mới giáo dục, thay đổi cách ra đề thi. Việc xây dựng quân đội hùng mạnh có bài bản, có học vấn, giữ vững hòa khí với láng giềng để tạo thế trong ấm ngoài êm cũng nhờ một phần công lao của ông.
Các nguồn sử liệu đều khá thống nhất khi đánh giá về Nguyễn Công Cơ rằng, ông là người cương trực, hễ thấy điều gì sai quấy là chẳng bao giờ bỏ qua. Các quan phủ chúa vì thế mà rất ghét ông.
Hai năm sau phát hiện ra vụ mưu phản của Trịnh Luân và Trịnh Phất, Nguyễn Công Cơ lại gây chấn động cả nước bởi một phát hiện của ông về gian lận thi cử, liên quan đến nhiều bậc đại thần.
Bấy giờ việc thi cử phần nhiều bị nhũng lạm, thường là hễ con nhà quan chức giàu có thì dù dốt nát thế nào cũng đỗ Hương cống. Nguyễn Công Cơ tấu trình sự thật, chúa lệnh bắt thi lại. Hai mươi tám người bị lật tẩy không đủ tiêu chuẩn và đều bị giao xuống pháp đình xét hỏi trị tội. Từ đó, triều đình bắt những người đã đỗ Hương cống phải thi lại ở lầu Ngũ Long.
Tháng Giêng, mùa Xuân năm Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), Tả thị lang bộ Hộ Nguyễn Công Cơ và Thái bốc tự khanh Lê Anh Tuấn được cử làm Chánh sứ Đại Việt, Phó sứ Thượng bảo tự khanh Đình Nho Hoàn và Lại khoa cấp sự trung Nguyễn Mậu Áng sang tuế cống nhà Thanh.
Với tài ngoại giao khôn khéo, Nguyễn Công Cơ đã buộc triều đình nhà Thanh phải hủy bỏ nhiều quy định phiền hà, các lệ như cống nạp sừng tê, vàng giảm về số lượng.
Lệ cống “người bằng vàng thế mạng Liễu Thăng” có từ thời Lê sơ, đến cuộc đi sứ này của Nguyễn Công Cơ cũng bị hủy bỏ. Không chỉ vậy, chuyến đi sứ này, ông đã đi đến việc cắm mốc giới, xác định rõ chủ quyền bất di bất dịch giữa hai bên.
Nguyễn Công Cơ còn thành công đòi lại mỏ đồng Tụ Long và vùng đất biên cương nhiều năm bị phương Bắc lấn chiếm. Một năm sau, đoàn đi sứ trở về “phụng chỉ dụ của vua nhà Thanh nói: Phẩm vật tuế cống, lư hương và bình hoa bằng bang, chậu bằng bạc, từ sau được theo số lượng đã định mà thay thế làm thành vàng đĩnh, bạc đĩnh rồi giao quan chức tỉnh Quảng Tây thu nhận lưu trữ, còn ngà voi và tê giác đều được miễn, người tùy hành cũng liệu lượng giảm bớt”.
Nhờ quyết định này của vua Thanh, từ đó về sau việc chuẩn bị đồ tuế cống của nước ta giản tiện hơn, đồng thời nhà Thanh cũng rút bớt số quan viên và chức dịch phải tới kinh đô (Bắc Kinh) của mỗi sứ đoàn, chỉ gồm 1 chánh sứ, 2 phó sứ và tùy hành 20 người mà thôi.
Được học trò dựng miếu khi còn sống
Chính vì thành công của đợt đi sứ này mà ông được triều đình thăng làm Binh bộ Thượng thư. Theo “Sứ trình nhật lục” của Trần Anh Thái, chuyến đi sứ của Nguyễn Công Cơ và đoàn sứ bộ có sự hỗ trợ, giúp sức của một số quan lại người Trung Quốc vốn là học trò cũ của Nguyễn Công Cơ.
Khi đoàn sứ bộ Đại Việt do Nguyễn Công Cơ dẫn đầu đến địa giới Quảng Đông, dừng chân nghỉ lại phía trước một ngôi miếu, đoàn định vào miếu thắp hương thì bị ngăn lại. Sau đó ông mới được biết đây chính là ngôi miếu thờ… mình.
Hai anh em Phùng tướng quân hồi nhỏ theo gia đình sống ở Đại Việt, phường Hà Khẩu (Thăng Long), theo học thầy Nguyễn Công Cơ. Những người học trò này sau khi về nước tiếp tục đường học vấn rồi thi đỗ Tiến sĩ, ra làm quan. Nhớ ơn người thầy nên họ đã lập miếu thờ, lấy ngày sinh của thầy tổ chức cúng tế.
Khi được gặp lại người thầy họ kính trọng đang đi sứ Trung Quốc thì họ hết sức cung kính đón tiếp, đưa rước và hỗ trợ phía sau. Theo đó, hai anh em Phùng tướng quân - Tổng đốc đại thần tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, học trò và Tuần phủ Triết Giang đã mách bảo người thầy của mình những mánh khóe bóc lột của nhà Thanh để thầy đối phó.
“Vì quá cương trực nên Tiến sĩ Nguyễn Công Cơ khó tránh khỏi ganh ghét, đè nén, bèn xin đổi sang hàng quan võ làm Đề đốc Thự phủ sự, sau trải đến Thiếu bảo. Đến năm Quý Sửu (1733) Nguyễn Công Cơ mất lúc 58 tuổi, được triều đình truy tặng hàm Thiếu phó.
Tuy làm quan lớn, nhưng ông không có sản nghiệp riêng, có tiếng là thanh bần. Bên cạnh sự nghiệp chính trị, Nguyễn Công Cơ còn để lại một số trước tác như “Vũ học tùng ký” và 9 bài thơ chữ Hán chép trong “Toàn Việt thi lục”.
Đến năm Canh Tý niên hiệu Bảo Thái thứ nhất (1720), tháng 4 mùa Hạ, triều đình khảo xét công trạng 10 năm của tất cả quan lại, lúc bấy giờ Nguyễn Công Cơ đang là quan văn được dự hạng thượng khảo. Kết quả ông đứng bậc nhất, được ban tước Cảo (Tảo) quận công và cho hợp cùng Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Hãng vào làm Tham tụng trong phủ chúa.
Con cháu nhà khoa bảng Nguyễn Công Cơ có nhiều người đỗ đạt cao và để lại danh vọng cho đời. Trong đó có 2 người cháu thi đỗ trong một khoa, được vua Lê tặng thơ với hai câu mở đầu: Một khoa hai cháu đỗ ông Nghè/ Tiếng cáo vang lên bốn biển nghe. Bài thơ ấy vẫn được lưu tại nhà thờ họ Nguyễn Công.
Hiện nay, nhà thờ Tiến sĩ Nguyễn Công Cơ (gọi là nhà thờ cụ Thượng Cáo) tại làng Xuân Tảo (quận Bắc Từ Liêm). Đất nhà thờ trước kia vốn là kho muối của triều đình, sau khi Nguyễn Công Cơ mất, triều đình nhà Lê ban cho dòng họ khu đất này làm nơi hương khói, phụng thờ.
Nhà thờ có niên đại khoảng 300 năm, năm 2008 được tiến hành trùng tu khá toàn diện. Nhà thờ là nếp nhà ba gian, xây dựng theo kiểu đầu hồi bít đốc, tay ngai, kiến trúc chữ Đinh, lợp ngói ri. Bên trong nhà thờ được chia làm 3 không gian thờ tự, trong đó, quan trọng nhất là gian giữa được dòng họ đặt hương án thờ Quận công Nguyễn Công Cơ và song loan vua ban.